Thơ Hay

Bắc Hành Tạp Lục – Tập thơ nổi tiếng nhất của Nguyễn Du phần 7

Bắc Hành Tạp Lục gồm 132 bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du sáng tác trong vòng 1 năm, từ tháng hai đến tháng chạp năm Quý Dậu (1813) khi ông cầm đầu một phái đoàn sang sứ Trung Quốc. Những trang thơ của ông đều là những cảm nghĩ sâu sắc về chuyến đi. nếu bạn tò mò về những tuyệt phẩm này thì hãy cùng chúng tôi đón xem nhé!

Nội Dung

一帶垂楊半暮煙,
邯鄲勝跡見遺編。
高原豐草呼鷹路,
何處雲和挾妓筵。
鴻嶺夢中荒射獵,
白頭足跡遍山川。
黃河南北皆秋水,
鄉信何由達鴈邊。

Hàm Đan tức sự

Nhất đới thuỳ dương bán mộ yên,
Hàm Đan thắng tích kiến di biên.
Cao nguyên phong thảo hô ưng lộ,
Hà xứ Vân Hoà hiệp kỹ diên.
Hồng Lĩnh mộng trung hoang xạ liệp,
Bạch đầu túc tích biến sơn xuyên.
Hoàng Hà nam bắc giai thu thuỷ,
Hương tín hà do đạt nhạn biên.

Dịch nghĩa

Một dải dương liễu rủ trong khói gần chiều
Thắng cảnh Hàm Ðan thấy ghi trong sách cũ
Trên cao nguyên, bãi cỏ tươi xanh là đường gọi chim ưng (đi săn)
Còn đâu núi Vân Hoà tiệc vui ca kỹ ?
Hồng Lĩnh trong giấc mộng thiếu vắng những cuộc đi săn
Ðầu bạc còn in dấu chân khắp núi sông
Nam bắc Hoàng Hà đều ngập nước mùa thu
Tin nhà làm sao đưa tới bên chim nhạn được

百萬旌麾北渡河,
燕交地下有沉戈。
悠悠事後二千載,
蕩蕩城邊一片沙。
噲伍未成甘碌碌,
君前猶自善多多。
可憐十世山河在,
厚誓徒延絳灌家。

Hàn Tín giảng binh xứ

Bách vạn tinh huy bắc độ Hà,
Yên giao địa hạ hữu trầm qua.
Du du sự hậu nhị thiên tải,
Đãng đãng thành biên nhất phiến sa.
Khoái ngũ vị thành cam lục lục,
Quân tiền do tự thiện đa đa.
Khả liên thập thế sơn hà tại,
Hậu thệ đồ duyên Giáng Quán gia.

Dịch nghĩa

Trăm vạn cờ xí vượt sông Hoàng Hà phía bắc
Dưới đất Yên còn vùi gươm giáo
Việc xa xôi xảy ra đã hai nghìn năm
Mênh mông ở bên thành một bãi cát
Cùng hàng với bọn Phàn Khoái, chưa thành công, cam chịu tầm thường
Trước mặt vua vẫn tự cho (có tài cầm quân), “càng nhiều càng tốt”
Thương thay, sơn hà nhà Hán đã được mười đời rồi
Nhưng chỉ có Giáng hầu, Quán Anh là được hưởng lời thề nồng hậu (của vua Hán Cao Tổ)

廉頗亡去武安將,
四十萬人同穴葬。
乳臭小兒易言兵,
一國長城徒自喪。
寄閫重任須老成,
內審國勢外敵情。
所以臨敵能制勝,
端在捐仇知負荊。
一國兩虎不可犯,
二十餘年誰與爭。
將軍在時趙以重,
將軍去時令趙輕。
所恨讒人織萋斐,
何須一食三遺屎。
白頭去後不重來,
邯鄲之事可知矣。
趙亡秦繼三千年,
將軍名序至今傳。
摩挲古碣三太息,
勃勃壯氣想見其生前。
今人不少食多肉,
幾令家養無遺畜。
清平時節無戰爭,
一口雄談不數廉頗與李牧。

Liêm Pha bi

Liêm Pha vong khứ Võ An tướng,
Tứ thập vạn nhân đồng huyệt táng.
Nhũ xú tiểu nhi dị ngôn binh,
Nhất quốc trường thành đồ tự táng.
Ký khổn trọng nhậm tu lão thành,
Nội thẩm quốc thế ngoại địch tình.
Sở dĩ lâm địch năng chế thắng,
Đoan tại quyên cừu tri phụ kinh.
Nhất quốc lưỡng hổ bất khả phạm,
Nhị thập dư niên thuỳ dữ tranh.
Tướng quân tại thời, Triệu dĩ trọng,
Tướng quân khứ thời linh Triệu khinh.
Sở hận sàm nhân chức thê phỉ,
Hà tu nhất thực tam di thỉ.
Bạch đầu khứ hậu bất trùng lai,
Hàm Đan chi sự khả tri hĩ.
Triệu vong Tần kế tam thiên niên,
Tướng quân danh tự chí kim truyền.
Ma sa cổ kiệt tam thái tức,
Bột bột tráng khí tưởng kiến kỳ sinh tiền.
Kim nhân bất thiểu thực đa nhục,
Cơ linh gia dưỡng vô di súc.
Thanh bình thời tiết vô chiến tranh,
Nhất khẩu hùng đàm bất sổ Liêm Pha dữ Lý Mục.

敝盡貂裘不復西,
趙臺抵掌吐虹霓。
縱橫自可愚庸主,
富貴還能倨寡妻。
六國印銷沙漠漠,
一亭秋暮草萋萋。
人生權利成無味,
今古誰能破此迷。

Tô Tần đình kỳ 1

Tệ tận điêu cừu bất phục tê,
Triệu đài để chưởng thổ hồng nghê.
Tung hoành tự khả ngu dung chúa,
Phú quý hoàn năng cứ quả thê.
Lục quốc ấn tiêu sa mạc mạc,
Nhất đình thu mộ thảo thê thê.
Nhân sinh quyền lợi thành vô vị,
Kim cổ thuỳ năng phá thử mê.

Dịch nghĩa

Rách hết áo cừu đen, không trở lại phía Tây (nhà Tần)
Nơi triều đường nước Triệu, đập tay thở ra cầu vồng (ra tài hùng biện)
Thuyết hợp Tung, liên Hoành chỉ phỉnh được vua chúa tầm thường
Giàu sang có thể ngạo nghễ với đàn bà goá
Ấn sáu nước tiêu tan, cát bụi mịt mùng
Một ngôi đình trong cảnh thu muộn, cỏ um tùm
Trong đời người, quyền lợi thật là vô vị
Xưa nay ai phá được điều mê muội đó

晉陽城外滔滔水,
智伯漆頭為溺器。
無人報仇誠可悲,
其臣豫讓身當之。
漆身為癩剔鬚眉,
當道乞食妻不知。
身挾匕首伏橋下,
怒視仇腹甘如飴。
殺氣凜凜不可近,
白日無光霜雪飛。
再擭再舍心不移,
臨死猶能三擊衣。
凌凌奇氣千霄上,
自此橋名更豫讓。
君臣大義最分明,
國士眾人各易尙。
愧剎人臣懷二心,
千古聞之色惆悵。
不是荊軻聶政徒,
甘人豢養輕其軀。
血氣之勇不足道,
君獨錚錚鐵丈夫。
路經三晉皆丘土,
注目橋邊如有睹。
西風凄凄寒逼人,
征馬頻頻驚失路。
匕首當時七寸長,
獨有萬丈光茫亙今古。

Dự Nhượng kiều chuỷ thủ hành

Tấn Dương thành ngoại thao thao thuỷ,
Trí Bá tất đầu vi niệu khí.
Vô nhân báo cừu thành khả bi,
Kỳ thần Dự Nhượng thân đương chi.
Tất thân vi lại dịch tu mi,
Đương đạo khất thực thê bất tri.
Thân hiệp chuỷ thủ phục kiều hạ,
Nộ thị cừu phúc cam như di.
Sát khí lẫm lẫm bất khả cận,
Bạch nhật vô quang sương tuyết phi.
Tái hoạch tái xả tâm bất di,
Lâm tử do năng tam kích y.
Lăng lăng kỳ khí thiên tiêu thượng,
Tự thử kiều danh canh Dự Nhượng.
Quân thần đại nghĩa tối phân minh,
Quốc sĩ chúng nhân các dị thượng.
Quý sát nhân thần hoài nhị tâm,
Thiên cổ văn chi sắc trù trướng.
Bất thị Kinh Kha Nhiếp Chính đồ,
Cam nhân hoạn dưỡng khinh kỳ khu.
Huyết khí chi dũng bất túc đạo,
Quân độc tranh tranh thiết trượng phu.
Lộ kinh Tam Tấn giai khâu thổ,
Chú mục kiều biên như hữu đổ.
Tây phong thê thê hàn bức nhân,
Chinh mã tần tần kinh thất lộ.
Chuỷ thủ đương thì thất thốn trường,
Độc hữu vạn trượng quang mang cắng kim cổ.

Dịch nghĩa

Ngoài thành Tấn Dương nước chảy cuồn cuộn
Đầu Trí Bá bị bôi sơn làm chậu đựng nước tiểu
Không ai báo thù, thật đáng thương
Bề tôi là Dự Nhượng đem thân gánh vác việc ấy
Sơn mình làm người hủi, cạo râu mày
Giữa đường ăn xin mà vợ không nhận ra
Mình mang gươm ngắn nấp dưới cầu
Giận nhìn bụng kẻ thù (muốn đâm) ngon như ăn đường
Đằng đằng sát khí không ai dám lại gần
Giữa ban ngày mà như không có ánh sáng, như có sương tuyết bay
Bị bắt, được tha, lại bị bắt, lại được tha mấy lần, lòng không đổi
Đến lúc chết còn đánh được ba lần vào áo Tương Tử
Khí lạ cao ngất ngút tận trời cao
Từ đó cầu mang tên cầu Dự Nhượng
Nghĩa lớn vua tôi cực rõ ràng
Giữa kẻ quốc sĩ và người thường, cách đối sử khác nhau
Bề tôi mà hai lòng thật đáng hổ thẹn đến chết
Nghìn xưa nghe chuyện ai cũng ngậm ngùi
Không như Kinh Kha, Nhiếp Chính
Cam chịu để cho người nuôi dưỡng mà coi nhẹ thân mình
Cái dũng khí của máu huyết họ không phải nói nhiều
Riêng có ông (Dự Nhượng) là bậc trượng phu cứng cỏi như thép
Đường qua Tam Tấn đều là gò bãi
Chăm chú nhìn bên cầu dường như có bóng ông
Gió tây lạnh buốt tê cóng người
Ngựa chiến nhiều lần hí lên sợ lạc đường
Chiếc gươm ngắn thời đó dài bảy tấc
Riêng có tia sáng dài muôn trượng rọi thấu cổ kim.

豫讓匿身刺襄子,
此地因名豫讓橋。
豫讓既殺趙亦滅,
橋邊秋草空蕭蕭。
君臣正論堪千古,
天地全經盡一朝。
凜烈寒風冬日薄,
奸雄過此尚魂消。

Dự Nhượng kiều

Dự Nhượng nặc thân thích Tương Tử,
Thử địa nhân danh Dự Nhượng kiều.
Dự Nhượng kí sát Triệu diệc diệt,
Kiều biên thu thảo không tiêu tiêu.
Quân thần chính luận kham thiên cổ,
Thiên địa toàn kinh tận nhất triêu.
Lẫm liệt hàn phong đông nhật bạc,
Gian hùng quá thử thượng hồn tiêu.

Dịch nghĩa

Dự Nhượng dấu mình đâm Tương Tử
Chỗ này do đó tên là cầu Dự Nhượng
Dự Nhượng giết rồi, nước Triệu cũng diệt vong
Bên cầu cỏ thu xơ xác
Lời bàn đúng đắn về nghĩa vua tôi đáng làm gương muôn thuở
Làm trọn đạo trời đất trong một sớm
Gió lạnh căm căm, trời đông nhạt
Kẻ gian hùng tới đây còn mất hồn vía

白虹貫日天漫漫,
風蕭蕭兮易水寒。
歌聲慷慨金聲烈,
荊軻從此入秦關。
入秦關兮持匕首,
六國深仇一引手。
殿上卒然一震驚,
左右手搏王環柱。
階下舞陽如死人,
神勇毅然惟獨君。
縱然不殺秦皇帝,
也算古今無比倫。
怪底行蹤原市隱,
曾與燕丹無夙分。
殺身只為受人知,
徒得田光輕一刎。
可憐無辜樊於期,
以頭借人無還時。
一朝枉殺三烈士,
咸陽天子終巍巍。
燕郊一望皆塵土,
秋日秋風滿官路。
市上歌聲不復聞,
易水波流自今古。
故里枳棘縱復橫,
只有殘碑猶未傾。
莫道匕首更無濟,
楬竿斬木為先聲。

Kinh Kha cố lý

Bạch hồng quán nhật thiên man man,
Phong tiêu tiêu hề Dịch Thuỷ hàn.
Ca thanh khảng khái kim thanh liệt,
Kinh Kha tòng thử nhập Tần quan.
Nhập Tần quan hề trì chuỷ thủ,
Lục quốc thâm cừu nhất dẫn thủ.
Điện thượng thốt nhiên nhất chấn kinh,
Tả hữu thủ bác vương hoàn trụ.
Giai hạ Vũ Dương như tử nhân,
Thần dũng nghị nhiên duy độc quân.
Túng nhiên bất sát Tần hoàng đế,
Dã toán cổ kim vô bỉ luân.
Quái để hành tung nguyên thị ẩn,
Tằng dữ Yên Đan vô túc phận.
Sát thân chỉ vi thụ nhân tri,
Đồ đắc Điền Quang khinh nhất vẫn.
Khả liên vô cô Phàn Ô Kỳ,
Dĩ đầu tá nhân vô hoàn thì.
Nhất triêu uổng sát tam liệt sĩ,
Hàm Dương thiên tử chung nguy nguy.
Yến giao nhất vọng giai trần thổ,
Thu nhật thu phong mãn quan lộ.
Thị thượng ca thanh bất phục văn,
Dịch Thuỷ ba lưu tự kim cổ.
Cố lí chỉ cức tung phục hoành,
Chỉ hữu tàn bi do vị khuynh.
Mạc đạo chuỷ thủ canh vô tế,
Yết can trảm mộc vi tiên thanh.

Dịch nghĩa

Cầu vồng trắng vắt ngang mặt trời, bầu trời mênh mang
Gió thổi hắt hiu, chừ, sông Dịch lạnh
Tiếng ca khảng khái, tiếng thép rít
Kinh Kha vào ải Tần ở chỗ này
Vào ải Tần, chừ, cầm chuỷ thủ
Thù sâu sáu nước gửi vào một tay
Trên cung điện bỗng nhiên kinh động
Quan tả hữu tay không bắt, vua chạy vòng quanh cột
Dưới thềm, Vũ Dương như người đã chết
Thần dũng hiên ngang chỉ có mình ông
Dù chẳng giết được Tần hoàng đế
Tính xưa nay không có người sánh bằng
Lạ thay, vốn dấu kín hành tung giữa chợ
Không từng có duyên nợ gì với Yên Đan
Liều thân chỉ vì được người biết đến mình
Luống được Điền Quang nhẹ đâm cổ chết
Khá thương Phàn Ô Kỳ chẳng tội tình gì
Cho mượn đầu không hẹn kỳ trả lại
Một sớm ba liệt sĩ chết oan
Mà ngôi thiên tử ở Hàm Dương cuối cùng vẫn cao ngất ngưởng
Đất Yên nhìn toàn đất bụi
Nắng thu gió thu đầy quan lộ
Trong chợ không còn nghe tiếng ca nữa
Sông Dịch chảy mãi xưa nay
Làng cũ cây chỉ, cây gai mọc ngang dọc
Chỉ có cái bia tàn chưa đổ
Chớ nói rằng cây chuỷ thủ chẳng ích gì
Nó dẫn đầu cho việc trương sào, chặt cây (làm cờ, làm giáo khởi nghĩa)

太虛一點大觀之,
天地無功萬物資。
在日茅茨猶不剪,
後身香火更何為。
一中心法開群帝,
千古崇祠對九疑。
曾向許由讓天下,
聖人名實有誰知。

Đế Nghiêu miếu

Thái hư nhất điểm đại quan chi,
Thiên địa vô công vạn vật ti (tư).
Tại nhật mao tì do bất tiễn,
Hậu thân hương hoả cánh hà vi.
Nhất trung tâm pháp khai quần đế,
Thiên cổ sùng từ đối Cửu Nghi.
Tằng hướng Hứa Do nhượng thiên hạ,
Thánh nhân danh thực hữu thuỳ tri.

Dịch nghĩa

Một điểm trong thái hư xem ra rất lớn
Trời đất vô công, muôn vật được nhờ
Lúc sống, ở nhà lợp cỏ tranh còn không cắt
Chết rồi hương khói để làm chi ?
Tâm pháp “giữ đạo trung” mở lối cho các vua chúa đời sau
Ngôi đền cao nghìn thuở đối mặt núi Cửu Nghi
Từng muốn nhường thiên hạ cho Hứa Do
Danh và Thực của bậc thánh nhân có ai biết
Đế Nghiêu: Vị vua thời cổ. Sau truyền ngôi cho vua Thuấn 舜.

劉伶之子不成才,
荷插揚言死便埋。
醉裡已能齊萬物,
死時何必念遺骸。
天年古墓長荊棘,
萬里官道多風埃。
何似清醒看世事,
浮萍擾擾更堪哀。

Lưu Linh mộ

Lưu Linh chi tử bất thành tài,
Hạ sáp dương ngôn tử tiện mai.
Tuý lý dĩ năng tề vạn vật,
Tử thì hà tất niệm di hài.
Thiên niên cổ mộ trường kinh cức,
Vạn lý quan đạo đa phong ai.
Hà tự thanh tinh khan thế sự,
Phù bình nhiễu nhiễu cánh kham ai.

Dịch nghĩa

Gã họ Lưu không nên tài cán chi
Vác cuốc rêu rao “chết đâu chôn đó”
Trong cơn say đã có thể coi muôn vật ngang nhau
Đến lúc chết hà tất phải nghĩ tới hình hài
Mộ cổ nghìn năm gai góc mọc đầy
Đường quan muôn dặm nhiều gió bụi
Sao lại lấy trong sạch, tỉnh táo mà nhìn việc đời
Để như cánh bèo trôi giạt đáng thương thay

河北道中五尺豐碑當大路,
中有楷字大書騏麟墓。
道傍故老為余言,
永樂四年貢麟道死喪此土。
官命立碑用存故,
此事迄今已經古。
但見官道蕩蕩無丘陵,
其旁不封亦不樹。
片石傾欺苔蘚蔓,
淒風朝吹暮苦雨。
吁嗟麟兮何由睹,
吁嗟麟兮天上祥。
骨肉委之虫蛾蠹,
麟兮麟兮爾何苦。
何況燕棣何如人,
奪姪自立非仁君。
暴怒一逞夷十族,
大棒巨鑊烹忠臣。
五年所殺百餘萬,
白骨成山地血殷。
麟兮果為此人出,
大是妖物何足珍。
或是爾生不忍見殺戮,
先就此地捐其身。
吁嗟仁獸兮騏麟。
於世不見以為祥,
見之不過同犬羊。
若道能為聖人出,
當世何不南遊翔。

Kỳ lân mộ

Hà Bắc đạo trung ngũ xích phong bi đương đại lộ,
Trung hữu khải tự đại thư kỳ lân mộ.
Đạo bàng cố lão vị dư ngôn,
Vĩnh Lạc tứ niên cống lân đạo tử táng thử thổ.
Quan mệnh lập bi dụng tồn cố,
Thử sự hất kim dĩ kinh cổ.
Đãn kiến quan đạo đãng đãng vô khâu lăng,
Kỳ bàng bất phong diệc bất thụ.
Phiến thạch khuynh khi đài tiển man,
Thê phong triêu xuy mộ khổ vũ.
Hu ta lân hề hà do đổ,
Hu ta lân hề thiên thượng tường.
Cốt nhục uỷ chi trùng nghĩ đố,
Lân hề lân hề nhĩ hà khổ.
Hà huống Yên Đệ hà như nhân,
Đoạt điệt tự lập phi nhân quân.
Bạo nộ nhất sính di thập tộc,
Đại bổng cự hoạch phanh trung thần.
Ngũ niên sở sát bách dư vạn,
Bạch cốt thành sơn địa huyết an.
Lân hề quả vị thử nhân xuất,
Đại thị yêu vật hà túc trân.
Hoặc thị nhĩ sinh bất nhẫn kiến sát lục,
Tiên tựu thử địa quyên kỳ thân.
Hu ta nhân thú hề kỳ lân.
Ư thế bất kiến dĩ vi tường,
Kiến chi bất quá đồng khuyển dương.
Nhược đạo năng vị thánh nhân xuất,
Đương thế hà bất nam du tường.

Dịch nghĩa

Trên đường đi Hà Bắc có tấm bia cao năm thước dựng bên đường cái.
Trong có mấy chữ viết to theo lối chữ chân: “Mộ Kỳ Lân”
Ông lão ở bên đường bảo ta rằng:
“Năm Vĩnh Lạc thứ tư, con kỳ lân đem cống vua, chết giũa đường, chôn tại đây.
Quan trên cho dựng bia để ghi lại việc cũ.”
Việc ấy đến nay đã lâu rồi,
Nay chỉ còn thấy con đường cái quan bằng phẳng không gò đống
Cạnh bia chẳng đắp mộ cũng không trồng cây.
Phiến đá xiêu vẹo, rêu phủ mờ,
Sáng gió lạnh thổi, chiều mưa dầm dề tuôn,
Than ôi, kỳ lân vì đâu mày hiện ra?
Than ôi, kỳ lân là giống vật báo điềm lành ở trên trời!
Nay xương thịt bỏ cho sâu kiến đục.
Ôi kỳ lân! Ôi kỳ lân! Sao mày khổ thế!
Huống nữa Yên Đệ là người như thế nào?
Cướp ngôi của cháu để tự lập làm vua, y không phải là bậc nhân quân.
Để hả một cơn giận y giết cả mười họ (người ta)
Giết trung thần bằng cách đánh bằng gậy lớn và nấu trong vạc dầu lớn.
Trong năm năm giết trên trăm vạn mạng người,
Xương trắng chất thành núi, đất ngập máu.
Ôi kỳ lân! nếu mày vì kẻ ấy mà hiện ra,
Thì mày chỉ là đồ yêu quái, có gì đáng quý?
Hoặc là mày sống ở đời không nỡ nhìn cảnh chém giết,
Nên đến chỗ này mày chết trước.
Than ôi! kỳ lân là loài thú có đức nhân!
Trên trời chẳng thấy nên cho là điềm lành.
Thấy thì chẳng qua cũng như loài chó dê.
Nếu bảo kỳ lân vì thánh nhân mà hiện ra.
Thì thời ấy sao không lượn chơi sang phương Nam?

當時曾駐岳家軍,
此地經今有戰塵。
大將空懷邦國恥,
君王已絕父兄親。
金牌十二有遺恨,
鐵騎三千空暮蕓。
血戰十年成底事,
風波亭下謝金人。

Yển Thành Nhạc Vũ Mục ban sư xứ

Đương thì tằng trú Nhạc gia quân,
Thử địa kinh kim hữu chiến trần.
Đại tương không hoài bang quốc sỉ,
Quân vương dĩ tuyệt phụ huynh thân.
Kim bài thập nhị hữu di hận,
Thiết kị tam thiên không mộ vân.
Huyết chiến thập niên thành để sự,
Phong Ba đình hạ tạ Kim nhân.

Dịch nghĩa

Thời đó quân của Nhạc tướng quân từng đóng ở đây
Đất này xưa nay đã trải qua cát bụi chiến tranh
Đại tướng luống chịu mang cái nhục nước
Nhà vua đã dứt bỏ tình cha anh
Mười hai thẻ kim bài để lại mối hận
Ba ngàn quân kỵ chỉ còn lại đám mây chiều
Mười năm huyết chiến để thành ra cái việc
Bị giết ở đình Phong Ba để triều đình tạ lỗi với người Kim

泰山山色滿青徐,
千里山東縱目初。
何處聖賢松柏下,
別城絃誦曫鄒餘。
他鄉顏狀頻開鏡,
客路塵埃半讀書。
行色匆匆歲雲暮,
不禁憑式歎歸與。

Đông lộ

Thái Sơn sơn sắc mãn Thanh, Từ,
Thiên lý Sơn Ðông tống mục sơ.
Hà xứ thánh hiền tùng bách hạ,
Biệt thành huyền tụng Lỗ, Trâu dư.
Tha hương nhan trạng tần khai kính,
Khách lộ trần ai bán độc thư.
Hành sắc thông thông tuế vân mộ,
Bất câm bằng thức thán “qui dư”.

Trên đây, uct.edu.vn đã chia sẻ cho các bạn những thi phẩm tiêu biểu của Nguyễn Du trong tập thơ Bắc Hành Tạp Lục nổi tiếng. Đọc thơ ta có thể cảm nhận được một phong thái xuất chúng cùng ngòi bút sâu sắc mang giá trị cao cả của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du. Đồng hành cùng chúng tôi hứa hẹn sẽ mang đến cho các bạn những trang viết bổ ích hơn nữa!

Xem Thêm: Bắc Hành Tạp Lục – Tập thơ nổi tiếng nhất của Nguyễn Du phần 6

Related posts

Bài thơ Mùa thu tìm em – Nhà thơ Phú Sĩ

admin

Bài thơ Nhẫn cỏ – Nhà thơ Mạc Phương

admin

Bài thơ Người tình trong mộng – Nhà thơ Nguyễn Đình Huân

admin

Leave a Comment