Nhà Thơ Nổi Tiếng

Châu Hải Đường: Những Chùm Thơ Hay Dịch Của Tác Giả Khác

Châu Hải Đường sinh năm 1974, quê Hải Phòng. Trong sự nghiệp thơ ca, ngoài sáng tác, ông còn dịch tác phẩm của những tác giả chữ Hán khác. Ông được rất nhiều người quý trọng bởi ngôn ngữ dịch chuẩn xác, mang lại những vần điệu tuyệt vời cho quý độc giả. Ngay dưới đây, chúng tôi xin giới thiệu đến bạn một số bài thơ hay của ông nhé. Chắc chắn, những áng thơ này sẽ giúp bạn có những giây phút thư giãn thoải mái nhé!

Nội Dung

Nhất khúc tân từ tửu nhất bôi,
Khứ niên thiên khí cựu đình đài.
Tịch dương tây há kỷ thì hồi.

Vô khả nại hà hoa lạc khứ,
Tự tằng tương thức yến quy lai.
Tiểu viên hương kính độc bồi hồi.

Dịch nghĩa

Một khúc từ mới, một be rượu
Khí trời như năm ngoái, đình đài vẫn là cũ
Mặt trời lặn xuống phía tây, bao giờ trở lại

Không thể sao được, hoa đành rụng xuống
Dường như quen biết, chim én bay về
Trong vườn nhỏ, giữa lối hương thơm, một mình thơ thẩn

Kim phong tế tế,
Diệp diệp ngô đồng truỵ.
Lục tửu sơ thường nhân dị tuý,
Nhất chẩm tiểu song nùng thuỵ.

Tử vi chu cẩn sơ tàn,
Tà dương khước chiếu lan can.
Song yến dục quy thời tiết,
Ngân bình tạc dạ vi hàn.

Dịch nghĩa

Gió thu thổi vi vu,
Ngô đồng lá lá rụng.
Rượu lục người mới uống dễ say,
Gối đầu gần cửa sổ ngủ vùi.

Hoa tử vi và hoa dâm bụt đã tàn,
Ánh nắng xiên chiếu vào lan can.
Đã đến mùa chim én từng đôi muốn bay về tổ,
Tấm bình phong đêm qua thấm hơi lạnh.

Xuân vân đạm đạm, nhật huy huy,
Thảo nhạ hành khâm, nhứ phất y.
Hành đáo đình tiền phùng thái thú,
Lam dư mính đính sáp hoa quy.

Dịch nghĩa
Mây xuân phơn phớt, nắng long lanh
Cỏ dính quần, bông bám áo
Leo đến trước đình gặp thái thú
Say quá rồi, để nguyên quần áo giắt đầy bông hoa nằm kiệu mà về

Trúc tự hiền, hà tai? Trúc bản cố, cố dĩ thụ đức, quân tử kiến kỳ bản, tắc tư thiện kiến bất bạt giả. Trúc tính trực, trực dĩ lập thân, quân tử kiến kỳ tính, tắc tư trung lập bất ỷ giả. Trúc tâm không, không dĩ thể đạo, quân tử kiến kỳ tâm, tắc tư ứng dụng hư thụ giả. Trúc tiết trinh, trinh dĩ lập chí, quân tử kiến kỳ tiết, tắc tư để lệ danh hạnh, di hiểm nhất trí giả. Phù như thị, cố quân tử nhân đa thụ chi vi đình thực yên.

Trinh Nguyên thập cửu niên xuân, Cư Dị dĩ bạt tuỵ tuyển cập đệ, thụ hiệu thư lang, thuỷ ư Trường An cầu giả cư xứ, đắc Thường Lạc lý cố Quan tướng quốc tư đệ chi Đông Đình xử chi. Minh nhật, lý cập vu đình chi đông nam ngung, kiến tùng trúc ư tư, chi diệp điễn tuỵ, vô thanh vô sắc. Tuần vu Quan thị chi lão, tắc viết: “Thử tướng quốc chi thủ thực dã. Tự tướng quốc quyên quán, tha nhân giả cư, do thị khuông phỉ giả trảm yên, tuệ trửu giả ngải yên, hình dư chi tài, trưởng vô tầm yên, sổ vô bách yên. Hựu hữu phàm thảo mộc t ạp sinh k ỳ trung, bổng nhung hội úc, hữu vô trúc chi tâm yên.” Cư Dị tích kỳ thường kinh trưởng giả chi thủ, nhi kiến tiện tục nhân chi mục, tiễn khí nhược thị, bản tính do tồn. Nãi sam ế hội, trừ phẩn nhưỡng, sơ kỳ gian, phong kỳ hạ, bất chung nhật nhi tất. Vu thị nhật xuất hữu thanh âm, phong lai hữu thanh thanh. Y y nhiên, hân hân nhiên, nhược hữu tình ư cảm ngộ dã.

Ta hồ! Trúc, thực vật dã, ư nhân hà hữu tai? Dĩ kỳ hữu tự vu hiền nhi nhân ái tích chi, phong thực chi, huống kỳ chân hiền giả hồ? Nhiên tắc trúc chi ư thảo mộc, do hiền chi ư chúng thứ. Ô hô! Trúc bất năng tự dị, duy nhân dị chi. Hiền bất năng tự dị, duy dụng hiền giả dị chi. Cố tác “Dưỡng trúc ký” thư vu đình chi bích, dĩ di kỳ hậu chi cư tư giả, diệc dục dĩ văn ư kim chi dụng hiền giả vân.

Tân liệt Tề hoàn tố,
Tiên khiết như sương tuyết.
Tài vi hợp hoan phiến,
Ðoàn đoàn tự minh nguyệt.
Xuất nhập quân hoài tụ,
Ðộng dao vi phong phát.
Thường khủng thu tiết chí,
Lương tiêu đoạt viêm nhiệt.
Khí quyên khiếp tứ trung,
Ân tình trung đạo tuyệt.

Dịch nghĩa

Mới cắt lụa trắng nước Tề,
Trong sạch như sương tuyết.
Cắt may thành chiếc quạt hợp hoan,
Tròn tròn như trăng sáng.
Ra vào tay áo của người,
Phe phẩy sinh ra gió mát.
Nhưng luôn sợ tiết mùa thu tới,
Khí mát thổi xua cái nóng.
Ghét bỏ vứt vào trong rương,
Ân tình đã đứt tuyệt giữa đường.

Bán dạ Oa cung tác chiến trường,
Huyết tinh do tạp yến thì xuân.
Tây Thi bất cập thiêu tàn lạp,
Do vị quân vương lệ sổ hàng.

Dịch nghĩa

Khoảng nửa đêm, cung Quán Oa thành bãi chiến trường,
Máu tanh còn cảm thấy trong bữa tiệc xuân (của Việt vương sau đó).
Tây Thi không kịp thắp ngọn nến tàn nữa,
Nàng còn đang khóc thương vị quân vương

Nông sự phân phân nhật dạ mang,
Vấn cừ dư hữu kỷ đa lương.
A bà tiếu chỉ Nam sơn hạ,
Tiểu mạch thanh thanh, đại mạch hoàng.

Thúc phát hài đồng chẩm địa miên,
Mông lung tế vũ thảo sinh yên.
Tỉnh lai bất kiến hoàng pha độc,
Tầm đáo lạc hoa lưu thuỷ biên.

Liễu quán ngư quy chính ngọ thì,
Nhi đồng môn ngoại tiếu hi hi.
Vấn ông hà sự thu can tảo,
Lãn khán sa đầu duật bạng trì.

Thoát khước ô cân khứ đả sài,
Bạch vân mãn địa thấn mang hài.
Lão thê chúc phó khinh khiêu đảm,
Mạc đạp cao cương dữ hiểm nhai.

Liêm quyển tây phong hàn dục thấu,
Cảm biệt sầu y cựu.
Nhất viện mộc tê hương,
Mộng hồn ảnh lý,
Chính đoạn trường thì hậu.

Thu lai nhân cộng hoàng hoa sấu.
Lãnh phách hương doanh tụ.
Mạn đạo nhân đoàn viên,
Tư lường quy kỳ,
Ưng tại trùng dương hậu.

Kiều ảnh lưu hồng,
Hồ quang ánh tuyết,
Thuý liêm bất quyển xuân thâm.
Nhất thốn hoành ba,
Đoạn trường nhân tại lâu âm.
Du ti bất hệ dương xa trụ,
Thiến hà nhân truyền ngữ thanh cầm?
Tối nan câm,
Ỷ biến điêu lan,
Mộng biến la khâm.

Trùng lai dĩ thị triêu vân tán,
Trướng minh châu bội lãnh,
Tử Ngọc yên trầm.
Tiền độ đào hoa,
Y nhiên khai mãn giang tầm.
Chung tình phạ đáo tương tư lộ,
Phán trường đê, thảo tận hồng tâm.
Động sầu ngâm,
Bích lạc hoàng tuyền,
Lưỡng xứ thuỳ tầm?

Dịch nghĩa

Cầu bóng ánh vồng,
Hồ soi sắc tuyết,
Rèm xanh chẳng cuốn xuân nồng.
Sóng mắt đưa ngang,
Đoạn trường người ở lầu hồng.
Tơ trời chẳng níu xe dê được,
Nhủ chim xanh, ai giúp cho không?
Khó ngăn lòng,
Tựa khắp lan can,
Mộng khắp mền nhung.

Lại qua thôi đã tan mây sớm,
Tủi minh châu đeo lạnh,
Ngọc tía khói lồng.
Năm ngoái hoa đào,
Còn đây đua nở mom sông.
Chung tình sợ nẻo tương tư bước,
Ngóng đê dài, cỏ thảy tâm hồng
Tiếng sầu rung,
Bích lạc hoàng tuyền,
Người ở đâu cùng?

Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh

Sáp thiên tứ tháp vân trung xuất,
Cách thuỷ chư phong tuyết hậu tân.
Đạo thị viễn chiêm tam bách lý,
Như hà bất kiến lục thiên nhân?

Dịch nghĩa

Vờn mây bốn tháp hiện lưng trời;
Tan tuyết, non ngàn vẻ mới tươi.
Nghe nói, trông xa trăm mấy dặm;
Cớ chi chẳng thấy sáu ngàn người?

Mạc mạc hàn giang đinh thảo lục,
Đinh biên độc lập triều thôn túc.
Kiến nhân lược thuỷ giai thuyền phi,
Cánh hướng thiển sa nhàn xứ túc.

Dịch Nghĩa

Sông lạnh mênh mang cỏ bãi óng,
Lẻ loi ven bãi chân dầm sóng.
Thấy người tung cánh lướt theo thuyền,
Tìm vụng cát nông yên đậu xuống.

Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.

Người ơi thôi hãy về thôi,
Ruộng vườn sắp lụi hoang rồi về đi.
Tâm này đem luỵ thân kia,
Sao còn buồn bã sầu chi một mình?
Việc xưa biết chẳng can thành,
Việc sau sắp lại đuổi mình đến nơi.
Đường mê thực chửa xa xôi,
Nhận ra nay đúng, xưa thời là sai.
Con thuyền nhẹ gió lung lay,
Hiu hiu gió thổi áo bay phật phờ.
Hỏi người đi đoạn đường xa,
Hận vì nỗi ánh mai đà còn thưa.
Mừng trông mái thấp chạy ùa,
Tiểu đồng vui đón, con chờ cửa bên.
Ngõ hoang tùng cúc còn nguyên,
Dắt con vào cửa, rượu liền đầy chung.
Nâng bầu tự chuốc rưng rưng,
Trông cây sân, mặt vui mừng xiết bao.
Tựa song nam, thoả ngạo cao,
Xem trong chật hẹp dạt dào an vui.
Thú riêng ngày lội vườn chơi,
Cửa tuy có đó, thường thời chặt then.
Nghỉ ngơi tựa gậy bên ghềnh,
Nghển đầu dạo bước ngắm quanh bốn bề.
Lòng không dời núi mây đi,
Chim bay mỏi cánh lại về chốn xưa.
Chiều hôm cảnh vật dần mờ
Bồi hồi ôm gốc tùng già đơn côi.
Người ơi thôi hãy về thôi,
Đừng giao du nữa với đời mà chi.
Người đời đã bỏ ta đi,
Những lời tâm huyết mong gì nữa đây?
Tâm tình thân thích vui vầy,
Khuây đàn sách để sầu này nhẹ vơi.
Nông phu bảo, sắp xuân rồi,
Việc đồng tây lại tới nơi bây giờ.
Khi thuyền lẻ, khi xe bò
Tìm khe luồn lách, qua gò nhấp nhô.
Xanh tươi cây cũng nhởn nhơ,
Rì rào tiếng suối nãy giờ vừa tuôn.
Nỗi ta làm, nghỉ cảm buồn,
Đắc thời muôn vật thèm thuồng được như.
Gửi hình trời đất vô hư,
Mặc cho đi ở sao chưa thả lòng?
Mong chi thấp thỏm chờ trông,
Chẳng thèm phú quý, chẳng hòng đế hương!
Mong ngày đẹp lại lên đường,
Hoặc thời chống gậy lên nương cấy trồng.
Ngâm nga thư thái bờ đông.
Lại qua bên suối viết dòng thơ quê.
Thuận theo lẽ đạo mà về,
Vui theo thiên mệnh chớ hề ngờ nghi!

Tuyết sương muôn dặm khổ phong trần,
Nào biết hôm nay đã Lập Xuân.
Bệ ngọc thềm hoa muôn luyến nhớ,
Trông nam, dừng bước bái quân thân.

Quắc Quốc phu nhân nhờ sủng ân;
Rạng ngày lên ngựa đến cung môn.
Riêng hiềm son phấn tổn nhan sắc;
Nhạt kẻ mày xanh chầu chí tôn.

Biệt ly sầu,
Miên man chẳng hết,
Ngày nao lối nhỏ xanh mầm.
Màn thêu người tưởng nhớ,
Trộm rơi châu lệ,
Khóc tiễn chinh nhân.
Mãi đi mãi trước mắt,
Dẫu muôn trùng,
Nước chảy mây vần.
Trông ngóng mãi lầu cao,
Trọn buổi mắt dõi vương tôn.

Tiêu hồn!
Bên hồ ly biệt,
Chỗ từng qua,
Sắc oán màu quần.
Khi nào cầm tay ngọc.
Giữa hoa bay tơ rối,
Đệm nức quanh chân.
Má hồng rồi cũng nhạt,
Cỏ năm năm,
Hương ngát mãi còn.
Khắp ruộng biếc,
Mắt trông ngây ngất,
Chớ uổng màu xuân!

tửu tận tình do tại

Liễu Chương Đài, liễu Chương Đài;
Khi xưa xanh mướt, biết nay chốn nào?
Thướt tha dù tựa ngày nao;
Chắc rằng cũng đã bẻ trao tay người.

Thành xuân khắp chốn hoa bay;
Vườn cung hàn thực liễu gầy gió nghiêng.
Hán cung chiều tối đuốc truyền;
Năm nhà hầu tước khói êm chia vào.

Em Lý Ba, tự Ung Dung,
Áo đơn tay ngắn, gấm hồng đất Man.
Điện Lương tình mộng chẳng màng,
Cung Ngô ghen sắc, chưa từng tự hay.
Rủ rê biết rượu khó thay,
Tình xuân trễ nải, thường gây ai buồn.
Bên đu, dưới gốc hải đường,
Quay lưng vơ tóc, đỉnh đương nói cười.

Gặp nhau trưa đứng bóng,
Chia biệt chuông chiều tàn.
Cảnh sắc chừng xuân hết,
Sự lòng tựa tiệc tan.
Quyến luyến tình đôi chốn,
Chua cay cỗ một bàn.
Hành lang dài tối vắng,
Tìm đâu dấu guốc nàng.

Văn chương lầm lỡ cuộc đời ta;
Cược chức quan quèn góc bể xa.
Phú quý riêng hay, đêm mặc gấm;
Năm tàn chẳng biết, bóng ngày qua.
Tuổi nhiều danh hão càng thêm ngốc
Đêm sợ canh dài giấc chẳng ra.
Quê cũ chốn nào xa ngóng mãi,
Nùng xanh Nhị biếc nước non nhà.

Ngô vương cậy bá, tỏ hùng tài;
Tham uống Cô Tô chén rượu say;
Nào biết Tiền Đường vừng nguyệt sáng;
Đưa quân Việt đến tối hôm nay.

Hò khoan một nhịp thuyền chèo;
Núi xanh cây đỏ ào ào nước trôi.
Chiều hôm rượu tỉnh, đâu người;
Lầu tây mù mịt một trời gió mưa.

Bạc đầu thư kiếm chửa thành;
Chùa Tiêu gắng đến tiễn anh về Tần.
Gác cao tùng quế trăng tàn,
Ngày mai kẻ bắc người nam đôi đường.

Ai người lính thú sa trường;
Khổ vì giá lạnh giấc vàng có nên?
Chiến bào may tự tay em;
Chẳng hay rồi được đến bên người nào
Lòng riêng thêm sợi chỉ điều;
Tình riêng bông ấm cũng nhiều hơn ai.
Kiếp này thôi cũng đành thôi;
Hẹn người được kết duyên hài kiếp sau!

Xa xa kìa ánh sao Ngưu;
Lung linh Chức Nữ bên đầu dòng Ngân
Búp tay thon thả trắng ngần;
Thoi đưa lách cách chuyên cần cửi canh.
Trọn ngày tấm lụa chưa thành;
Mà sao nước mắt tuôn tràn như mưa.
Sông Ngân một dải nông sờ;
Cách nhau nào có bao xa đâu nào.
Một dòng nước chảy nao nao,
Mà không nói được biết bao tâm tình.

Lầu Tần xuân gợn gió,
Cái én bay về tìm luỹ cũ.
Hơi lạnh còn vương,
Vừng nhật soi hờ gấm lụa.
Nhuỵ vàng tơ liễu nhẹ vừa buông,
Thảm ngọc cỏ non xanh mới nhú.
Vườn ngự oanh kêu,
Nước xuân cá múa.

Mấy khúc lan can tựa đủ,
Lại đến một mùa đào mận trổ.
Giai nhân hẳn giận muộn về,
Vóc mai lệ nhỏ.
Tiêu phượng tiếng ngừng chìm cánh nhạn,
Sóng xanh mỏi mắt không tăm cá.
Mây núi muôn trùng,
Dặm ngàn tấc dạ.

Thạch gia Kim Cốc chuộng lời ca;
Mười hộc minh châu đổi thướt tha.
Ngày ấy khá thương, nào thấy nữa;
Thuở nay yêu dấu thoả người ta.

Nhà người khuê các khó chưa từng;
Ca múa cho ai khá mượn cùng.
Phú quý cường hào bơ lý lẽ;
Mặc tình ngang ngược thế kiêu hùng.

Xa người, rời người dạ chẳng nhẫn;
Nhọc lòng che mặt huỷ má phấn
Trăm năm li biệt chốn lầu cao;
Vì chàng một buổi hồng nhan tận.

Muôn tiếng dần im lặng;
Trùng bay trước phật đài.
Đêm mưa, song khép nửa;
Bốn vách áo tăng đầy.

Cành dương liễu, nết tốt tươi;
Năm năm hận chỉ tặng người biệt li.
Một nhành gió báo thu về;
Dù là chàng lại, dễ gì bẻ cho?

Mời bạn theo dõi tiếp : Châu Hải Đường- Những chùm thơ hay dịch của tác giả khác (P2) nhé. Ông có 81 tác phẩm với nhiều chủ đề khác nhau, lối sáng tác của các tác giả khác nhau, điều này chúng ta có thể hiểu vì sao ông giành được nhiều giải thưởng của các tạp chí và báo nhé. Cảm ơn các bạn đã theo dõi bài viết trên!

Related posts

Nhà thơ Lê Đạt cùng tập thơ Ngỏ Lời được yêu thích nhất phần 7

admin

Nguyễn Quang Thiều Cùng Những Trang Thơ Đặc Sắc Phần 1

admin

Nhà thơ Lưu Trọng Lư cùng những trang thơ đặc sắc nhất phần 3

admin

Leave a Comment