Nhà Thơ Nổi Tiếng

Chùm Thơ Ấn Tượng Của Chính Hữu

Chính Hữu sinh ra và lớn lên tại thành phố vinh. Ông là một nhà thơ nổi tiếng được nhiều người biết đến. Ông là nhà thơ quân đội thực thụ cả ở phía tác giả lẫn tác phẩm. Từ lúc viết bài thơ đầu cho đến nay Chính Hữu vẫn phục vụ trong quân đội. Đề tài thơ hầu hết là đề tài đánh giặc, nhân vật trung tâm là anh bộ đội. Tình cảm quán xuyến trong toàn bộ thơ Chính Hữu là tình cảm người lính, trong đó lòng yêu Tổ quốc và tình đồng chí là hai chủ đề hay được đề cập. Thơ Chính Hữu thể hiện một cá tính trầm lặng nhưng cả nghĩ và dào dạt yêu thương, trong lòng luôn luôn có sự khắc khoải về trách nhiệm trước những nỗi gian lao của đồng bào, đồng chí.

Hôm nay, uct.edu.vn sẽ chia sẻ đến các bạn về nhà thơ tài hoa và những tác phẩm đi vào lòng người của ông. Đừng bỏ lỡ nhé!

Nội Dung

Chính Hữu tên thật Trần Đình Đắc, sinh năm 1926 tại Vinh, là nhà thơ quân đội thực thụ cả ở phía tác giả lẫn tác phẩm. Từ lúc viết bài thơ đầu cho đến nay Chính Hữu vẫn phục vụ trong quân đội. Đề tài thơ hầu hết là đề tài đánh giặc, nhân vật trung tâm là anh bộ đội. Tình cảm quán xuyến trong toàn bộ thơ Chính Hữu là tình cảm người lính, trong đó lòng yêu Tổ quốc và tình đồng chí là hai chủ đề hay được đề cập. Thơ Chính Hữu thể hiện một cá tính trầm lặng nhưng cả nghĩ và dào dạt yêu thương, trong lòng luôn luôn có sự khắc khoải về trách nhiệm trước những nỗi gian lao của đồng bào, đồng chí. Anh hay nghiêng về những hy sinh xót xa, với sự chân thành cảm phục biết ơn và rất nhiều tự vấn về trách nhiệm mình. Trong lễ duyệt binh, mắt nhìn những đoàn quân hùng mạnh đang tiến theo xe đại bác, tai nghe tiếng quân nhạc hùng tráng, nhưng tâm trí lại hướng về Đồng chí thương binh trên đôi nạng gỗ và sự xúc động hướng vào nhận thức:
mới hiểu được
vì sao những lá cờ bay
theo nhịp bước
vì sao những chân đi làm rơi nước mắt
Cảm hứng lớn trong thơ Chính Hữu cũng như trong cả nền thơ chúng ta là cảm hứng ca ngợi. Nhưng anh không ca ngợi dễ dãi, nhẹ lòng. Anh ca ngợi với tư thế người trong cuộc, người gánh trách nhiệm trên vai. Với anh, nhà thơ không thể chỉ đứng mà xuýt xoa,cảm thán trước những gian khổ hy sinh của dân tộc mà phải góp phần gánh vác những gian khổ đó. Ca ngợi anh giải phóng quân, anh ca ngợi trong sự chia sẻ sâu sắc. Tứ thơ Một nửa rất sáng tạo:
Tôi ôm anh
Như ôm nửa thân tôi đẫm máu
… cuộc đời anh cho tôi chia một nửa
Nửa giọt mồ hôi vạt áo còn đầm
Nửa dãy Trường Sơn thác ghềnh vất vả
Nửa nắm cơm hạt muối nhọc nhằn
Trong thơ Chính Hữu chúng ta hay gặp tiếng reo nhận thức:
Ta mới hiểu, ta mới hiểu.
Ta mới hiểu thế nào là đồng đội
Mới hiểu được vì sao những lá cờ bay
Mới biết chiều cao ngọn núi, chiều rộng con sông…
Đó cũng là một bằng chứng để nói ý thức tự nhận trách nhiệm là một tình cảm thường trực ở Chính Hữu. Có thể vì thế người ta thấy trong giọng thơ Chính Hữu một sự khắc khổ,lặng lẽ. Dù sao, trên tư cách một nhà thơ quân đội, Chính Hữu đã góp phần tích cực trong việc rèn luyện tư tưởng tình cảm cho bộ đội ta từ những việc cụ thể mà mỗi người lính thường gặp. Điều quan tâm lớn nhất ở Chính Hữu là trách nhiệm người lính trước vận mệnh Tổ quốc. Trách nhiệm ấy trong thơ anh được hình thành từ những yêu thương dằng dịt đối với người mẹ thắp hương cầu trời phù hộ bước con đi, đối với người vợ gánh gạo đưa chồng hai vai khó nhọc, đối với đồng chí đồng đội, đồng bào. Chính Hữu tìm sức mạnh của đoàn quân ở chỗ nhận thức giá từng thước đất: Bên trái Lò Văn Sự, bên phải Nguyễn Đình Ba và sức mạnh của khẩu súng không phải chỉ nằm trong viên đạn khi:
Súng ta kê
bên nôi nhỏ
các em nằm
Nhận thức trong thơ Chính Hữu trong khá nhiều trường hợp đã đạt được bằng con đường tình cảm. Nhờ thế thơ anh rắn khoẻ về tư tưởng, mà vẫn uyển chuyển, thấm thía.

Thơ Chính Hữu không phải là thơ phản ánh từng sự việc, miêu tả từng hoàn cảnh. Anh không quen lối viết ngay tại trận như nhiều cây bút khác. Anh viết sau khi mọi việc đã lắng lại, những gì ký ức còn giữ đều đã được gạn lọc. Thơ anh thiên về tổng hợp, tổng kết, có sức khái quát rộng. Thời gian để hoàn thiện một bài thơ nhiều khi khá lâu. Bài Đồng chí là những rung động thu nhận được trong một lần đi chiến dịch, nhưng phải đợi khi chiến dịch đã kết thúc, trong một đợt đi điều dưỡng Chính Hữu mới ôn lại mà viết. Bài Thư nhà là kết tinh nhiều lần xúc động của tác giả. Mỗi khi gặp những đoàn dân công hậu phương gánh gạo, tải đạn ra mặt trận, Chính Hữu ghi trong ký ức những trạng thái tâm tình của mình, nhưng không ghi một câu thơ cụ thể nào trên giấy. Mãi cuối chiến dịch Điện Biên Phủ anh mới phác ra Thư nhà, và bảy năm sau (1961), bài thơ mới đủ chín để xuất hiện.

Có lẽ vì cách làm việc như vậy nên Chính Hữu viết chậm, dù rằng trong lòng anh không lúc nào nguôi những nghĩ ngợi về thơ. Chính Hữu không viết ép, thấy câu chữ nhạt, là thôi ngay. Anh chỉ viết khi cảm xúc đầy đặn và chữa rất công phu. Nhờ vậy thơ Chính Hữu ít trồi sụt về chất lượng.

Thơ Chính Hữu có một kết cấu chặt chẽ, anh hiếm có câu thừa, ngay ở từng chữ cũng có sự cân nhắc. Anh viết như người ta chạm khắc, tính toán cẩn thận, rồi mới đặt mũi dao.

Nhịp điệu trong câu thơ Chính Hữu ít khi cố định, nó đổi thay theo nội dung, góp phần tạo nên nội dung. Anh ít viết theo các thể thơ ổn định, hình như không có bài lục bát nào. Anh sợ quán tính của vần điệu lôi tuột cả tình ý đi.

Có thể nói mỗi bài thơ Chính Hữu đều có một tìm tòi mới. Anh giữ bản sắc dân tộc một cách sáng tạo. Anh học ca dao trong hình ảnh ngọn đèn không bao giờ nhắm mắt, trong công việc của người vợ gánh gạo đưa chồng hai vai khó nhọc. Người xưa nói chia ly nơi đầu cuối một dòng sông, anh nói đoàn tụ ở hai đầu chiến trường. Câu thơ núi biên giới Núi, lại núi, lại núi phải chăng cũng phát triển từ câu thơ: Một đèo, một đèo, lại một đèo… Khi học tập một cách nói tự bên ngoài, Chính Hữu cũng không sa vào lai căng, lộ liễu, do anh biết bám chắc vào chất sống Việt Nam, tâm hồn Việt Nam.

Ông được biết đến là một nhà thơ của người lính. Thơ ông đậm chất trữ tình thể hiện niềm lạc quan, quyết chiến đấu đến cùng của những người chiến sĩ. Hãy cùng chúng tôi cảm nhận những bài thơ sâu sắc của nhà thơ Chính Hữu ngay bây giờ nhé!

Cháu dắt ông đi
Hai ông cháu mình vừa đi vừa học
Ông dạy cháu biết tất cả những gì
Có ở trên trời dưới đất
Còn cháu thì dạy ông biết
Cuộc đời này ngắn, nhưng ông đừng buồn
Vì nó – vĩnh hằng – tiếp tục
Đường vào thế kỷ hai mốt,
Hai người bộ hành một cháu một ông
Những bước đầu tiên đi song song,
Bên những bước cuối cùng.

Như một di truyền thế hệ
Cháu sẽ yêu, như ông bà, như cha mẹ
Dưới gió, dưới mây,
Những phố, những cây
Dù ở nơi này
Nay mai vắng vẻ
Dáng hình ông.

Có đoàn người lên đóng trên rừng sâu
Đêm nay mơ thấy trở về Hà Nội
Bao giờ trở lại?
Phố phường xưa gạch ngói ngang đường
Ôi hôm nay họ nhớ mái nhà hoang
Bức tường điêu tàn ngày xưa trấn ngự
Nhớ đêm ra đi, đất trời bốc lửa
Cả kinh thành nghi ngút cháy sau lưng
Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng
Hồn mười phương phất phơ cờ đỏ thắm
Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm
Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa
Mái đầu xanh thề mãi đến khi già
Phơi nắng gió. Và hoa ngàn cỏ dại
Nghe tiếng gọi của những người Hà Nội
Trở về, trở về, chiếm lại quê hương
Nguy nga sao cái buổi lên đường
Súng chuốt gươm lan, mắt ngời sáng quắc
A ha! nhà xiêu mái sập
Xác oan cừu ngập lối chân đi
Gạch ngói xưa mừng đón gót lưu ly
Bước căm giận xéo quân thù lớp lớp
Mịt mù khói ngợp
Cờ máu huy hoàng
Phất nắng
Ôi bài chiến thắng reo vang

Khi hai con bắt đầu yêu nhau
Thường lang thang trên các đường phố.
Cũng như bố mẹ ngày nào,
Muốn phố thật dài, để đi thật lâu.

Cũng dưới bóng cây thầm vụng
Cũng hai con chim đang gù
Những câu tỏ tình ấp úng

Bố mẹ, cũng như hai con, bấy giờ mới hay
Thế nào là phố
Thế nào là cây
Phố là nơi không gặp thì nhớ
Gốc cây ngồi, càng giận càng say

Mai sau, cho hai con, gọi là một chút gia tài.
Bố mẹ chỉ có những kỷ niệm
Để lại sau lưng, như một suối hương dài
Ngơ ngẩn
Còn bay
Trên phố
Trên cây.

Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau.
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ
Đồng chí!

Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,
Sốt run người, vừng trán ướt mồ hôi.

Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!

Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.

Tháng năm trong làng đã mùa gặt
Lòng dân sung sướng thóc mênh mông
Có người đi lính, hiền như đất
Muà hạ tưng bừng, thương núi sông
Một sớm mang về tin xuất trận
Vội vàng súng đạn, nao nức lòng
Ai về nhắn hộ cho thôn xóm
Một đi là hẹn chẳng về không
Mùa thu thây giặc chất sông núi
Mùa hạ thây giặc phơi đầy đồng

Ai về cấy lúa trồng bông
Cho lúa mau tốt, cho bông được mùa
Trưa hè rụng lá bàng khô
Tôi đi ra trận nghe hò bốn phương

Súng ơi!
Súng đã theo tôi mùa thu
Súng đi với tôi mùa hạ
Theo tôi diệt hết quân thù
Tôi nhớ thương người bạn cũ
Miệng cười mắt nhắm nghìn thu

Súng nặng
Đường dài
Vai gầy
Áo rách
Nhưng sớm ra đi miệng nở cười

Mặt nóng bừng bừng theo nhịp trống
Lòng nao nức rộn tiếng hoan hô
Bờ tre em nhỏ đưa tay vẫy
Hồn nở muôn sao phấp phới cờ…

Đêm Hà Nội buốt tê
Phố dài nghe sấu rụng
Nhìn ra cửa ô, bóng những con đê
Ầm ì tiếng súng

Ai về đó?
Trăng chếch bóng đen
Dài trên đường nhựa
Loáng đèn

Những người con trai con gái
Hôm qua ra đi, hôm nay trở lại

Hà Nội vẫn còn đây
Đứng lên từ gạch ngói
Hà Nội đang rầm rì
Đi trong từng ngõ tối

Quê ta lên khói cơm mùa
Ai hát tin về thắng trận
Bâng khuâng nắng nghiêng mái nhà

Bọn chúng ta đi
Lớn lên trong nước Cộng hoà
Phấp phới trong lòng bao nhiêu tiếng nói
Đường xanh cỏ núi
Chân người thiết tha
Ta đi mấy nghìn đêm vội
Sáng nay ta về Hà Nội
Kẻ thắng là ta

Đất nước ta ơi
Sao bỗng tay cầm run rẩy
Máu lên thắm những môi người
Sáo thổi nơi đâu nghe mà hay vậy?

Những đầu say bát ngát
Đi giữa nắng mùa ngân nga
Lòng vui rung rung câu hát
Của chúng ta làm
ca ngợi chúng ta

Hôm nọ gặp người làng ta ở xuôi
Hỏi thăm tin nhà tin mẹ

Mẹ hiểu câu “Kháng chiến trường kỳ nhất định thắng lợi”
Những đêm gió mưa dữ dội
Vẫn thắp hương cầu trời phù hộ bước con đi

Lúc thơ ngây con từng nghe kể
Từ tuổi lấy chồng mẹ ít khi vui
Ngày đưa thầy về nơi yên nghỉ
Lá mùa đông rơi xuống đầy vai

Con mang tấm lòng thương mẹ
Đi qua nghìn dặm quê hương
Này đây núi, này đây sông
Này đây buổi chiều khói thổi cơm lặng lẽ
Nơi nào cũng hiền như đời của mẹ

Làng ở đây như làng dưới ta
Cũng có giếng nước
Cũng có gốc đa
Cũng có con trai xa nhà

Yên tâm mẹ nhé
Con đi mười năm
Con đi bảo vệ
Niềm vui của mẹ
Và của quê hương
Một ngọn khói thổi cơm
Một mái nhà bình yên bếp lửa
Tiếng võng đung đưa trưa hè tuổi nhỏ

Năm mươi sáu ngày đêm bom gầm pháo giội,
Ta mới hiểu thế nào là đồng đội.
Đồng đội ta
là hớp nước uống chung
Nắm cơm bẻ nửa
Là chia nhau một trưa nắng, một chiều mưa
Chia khắp anh em một mẩu tin nhà
Chia nhau đứng trong chiến hào chật hẹp
Chia nhau cuộc đời, chia nhau cái chết.

Bạn ta đó
Ngã trên dây thép ba tầng
Một bàn tay chưa rời báng súng,
Chân lưng chừng nửa bước xung phong.
Ôi những con người mỗi khi nằm xuống
Vẫn nằm trong tư thế tiến công!
Bên trái: Lò Văn Sự
Bên phải: Nguyễn Đình Ba,
Những đêm tiến công, những ngày phòng ngự,
Có phải các anh vẫn còn đủ cả
Trong đội hình đại đội chúng ta ?

Khi bạn ta
lấy thân mình
đo bước
Chiến hào đi,
Ta mới hiểu
giá từng thước đất,
Các anh ở đây
Trận địa là đây,
Trận địa sẽ không lùi nửa thước,
Không bao giờ, không bao giờ để mất
Mảnh đất
Các anh nằm.

Một lá thư nhà
hôm nay ta đọc
Trong chiến hào chuẩn bị tiến công,
Ta mới hiểu thêm
từng chữ, từng dòng
Chưa bao giờ hiểu hết,
Ta mới biết
Chiều cao ngọn núi, chiều rộng con sông,
Hai tiếng quê hương bỗng sao thắm thiết.

Thư người hậu phương gánh gạo đưa chồng,
Hai vai khó nhọc,
Viết gửi cho ta ngổn ngang từng nét
Như gồng như gánh dân công,
Ánh mực lập loè đường xa lửa đuốc.
Lặn lội đi theo cả nước
Lên đây đánh giặc cùng ta
Đêm nay ở đâu?
lưng đèo?
cuối dốc?
Một lá thư nhà
Chia đôi nhiệm vụ
Hai người đoàn tụ
Hai đầu chiến công.

Mười năm đi mải miết
Mang quê mình xanh biếc trên lưng.
Khi ta hành quân đã khuất,
Lá nguỵ trang còn đọng tiếng chim rừng
Tha thiết

Cây mọc trăm miền gửi lá theo ta
Gian khổ đêm ngày chiến dịch,
Vẫn nghe rì rào thôn xóm ta qua
Nghe núi nghe sông trong cành lá hát.

Đêm tháng năm bồi hồi tiếng trống
Tôi đi trong những phố reo hò
Là một công dân, lòng cũng phất cờ
Tôi muốn hát một bài thơ cổ động

Ở nước ta
Mỗi cử tri là một người mơ mộng
Tháng năm này, suy nghĩ chuyện đi xa
Kế hoạch năm năm vẽ thêm bản đồ đất nước
Đẹp những công trường gạch đỏ như hoa
Những chợ, những sông, đây phố, đây nhà
Bãi vắng hôm qua
Xanh những bóng cây tình tự
Nước chở phù sa đi vào ruộng lúa
Lá phiếu này ta bỏ cho ta

(Miền Nam xa
Những đồng chí hôm nào ngã xuống
Nặng dưới hàng mi
Vẫn còn giấc mộng
Trên mộ hoa rừng nở trắng
Như từng lá phiếu cử tri
Bầu cho miền Bắc
Quốc hội hãy ghi
Tiếng nói của người công dân vắng mặt
Nhưng đi trong hàng ngũ ta đi)

Đêm tháng năm trống cờ bay bổng
Ta ghi vào lá phiếu của ta
những dòng hy vọng:
“Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Trường Chinh…”
Ôi cái tên những người Cộng sản
Nghe dặt dìu tên núi, tên sông
Tên viết bằng chữ đỏ chiến công
Những cái tên, trong lòng ta, đã thành câu hát
Giản dị, thông thường tiếng nói quê hương
Kể chuyện
chúng ta
khi đi
tay không
Khi về
trời mây – ruộng đồng – tất cả…

Đất nước ta cầm trong lá phiếu hôm nay
Đưa ta đi lớn bổng từng ngày

Tôi muốn làm thơ
ghép bằng khẩu hiệu
của Đảng ta
như anh hùng ca
rung động chúng ta
từng hồi trống trận

Lãng mạn như lời tiên tri
Khẩu hiệu “Kháng chiến trường kỳ nhất định thắng lợi”
đưa ta đi
vượt nghìn con sông, vượt nghìn quả núi

Ta nhớ từng ngày sôi nổi
Quê hương ta vườn trống nhà không
Khẩu hiệu trong lòng
đinh ninh
mải miết

Những đêm lửa đỏ xóm làng
thức với những người du kích
khẩu hiệu đứng
trên đường
bất khuất

Chúng ta đói, chúng ta rét
ta đánh giặc
bằng hai tay không
cầm khẩu hiệu
làm vũ khí
tiến công

Khi ta ngã xuống
Khẩu hiệu đã dựng
Chúng ta đứng lên

Khẩu hiệu của Đảng
đúc thép, phá hoang
bắc cầu, xây thêm hải cảng…
Trên mảnh đất này, khó nhọc, gian nan
đời sau còn nghe kể lại:
Lau sậy hoang vu, mưa dầm nắng dội
ngày ấy,
khẩu hiệu lên đây
đuổi cọp, san rừng, xẻ núi
Khẩu hiệu
đỏ
từng câu
nhức nhói
như lương tâm kêu gọi

Ta viết trên đường đất nước ta đi
những chữ đơn sơ, những chữ thần kỳ
Ta viết lên làng, lên phố
cuối chợ, đầu sông,
lên tờ sách mở
lên những đảo xa khuất mù sóng vỗ
những bản Mèo lạc giữa núi mây
Ta viết lên đá, tên viết lên cây
Lên từng trang cuốn lịch ngày ngày

Đồng chí thương binh
Trên đôi nạng gỗ,
xem mười lăm năm lịch sử
đang xếp thành đội ngũ
đi đều.

Đồng chí thương binh
tưởng nghe tiếng bước chân mình,
tiếng bước của bàn chân đã mất.

Bàn chân
mười năm
hành quân!

Thăm thẳm Chiềng Lề, Khâu Vác, Pha Đin…
Đâu quê hương là bàn chân bước đến.

Có gặp những người
đã để lại một phần thân thể
gửi làm hoa lá cỏ cây
trên mảnh đất này,
mới hiểu được tâm hồn tiếng trống hôm nay,
mới hiểu được
vì sao những lá cờ bay
theo nhịp bước,
vì sao những chân đi làm rơi nước mắt.

Với những anh hùng hôm qua chân đất,
Cả nước hành quân theo xe đại bác.
Đồng chí thương binh
tưởng nghe tiếng bước chân mình
tiếng bước của bàn chân đã mất,
trong tiếng nhạc,

Này nghe: Mười lăm năm hùng vĩ tiến
trên đường,
Gió núi mưa ngàn những đêm hành quân.

Núi, lại núi, lại núi…
Đội tuần tra súng ướt hơi mây
Hành quân giữa màu xanh biên giới

Không ở đâu bằng ở đây
Đất quê hương đo từng thước một
Của chúng ta, mỗi con suối mỗi gốc cây
Đã ghi trên bản đồ Tổ quốc

Đêm nay dừng lại
Đứng gác trong mây, bốn bề gió thổi
Hỏi quê mình còn thức hay không?

Ai đó, khuya rồi, một ngọn đèn chong
Đèn thương nhớ ai đèn không nhắm mắt
Vì nửa tấm lòng trong kia vẫn thức
Miền Nam xa, dậy tiếng reo hò
Có phải giờ này các anh tập kích
Mà ánh lửa trên đèo rậm rịch?

Đó con tàu lên vùng đất mới
Đội ngũ trùng trùng các chị các anh
Những ngọn đèn soi trong đêm vội
Những con người thức suốt năm canh
Nghe rú ngược rừng xuôi thét gọi

Cửa biển ì ầm suy nghĩ không nguôi
Trong dạ băn khoăn từng bày cá nhảy
Vẫy con thuyền sóng giạt ngoài khơi
Những ngọn hải đăng bồi hồi nhấp nháy

Đêm nào cũng vậy
Từ biên giới cao, lòng ta vẫn thấy
Nghìn dặm nước ta
Như dải Ngân Hà
Thao thức
Ta đứng gác
Cho sao trên trời
Cho sao dưới đất
Thương Tổ quốc ta không đêm nào ngủ được
Lại lên đường, hăng hái bước tuần tra
Đỉnh núi này, ta thức với quê ta

Một sườn núi xanh,
Một nấm mồ nằm trong bát ngát,
Tôi muốn biết tên anh
Người chiến sĩ vô danh
Đã làm nên Tổ quốc
Muốn tìm tên anh thì hỏi
Đỉnh núi Khâu Luông đêm đêm gió thổi,
Hỏi con đường truy kích năm xưa
Hun hút rừng Lào đi giữa nắng mưa
Hỏi con sông, con sông sẽ biết
Tên những người bôn tập qua đây
Hỏi từng viên đá gốc cây
Đã trông thấy quân thù tan tác
Hỏi mảnh đất này, khi anh dừng bước
Trên sườn núi khuất vô danh
Xanh như Tổ quốc.
Ôi tên anh không bao giờ mất!
Tôi thấy tên anh
Trong màu cỏ mùa xuân đã mọc,
Một ngôi sao xa long lanh nước mắt.
Một nụ cười em nhỏ mới sinh
Trong hạnh phúc
Những con người anh không biết mặt
Trong tên làng tên xóm mông mênh.
Tôi thấy tên anh trong tên đất nước,
Cuộc sống bây giờ chính là khúc hát
Tên anh.
Anh đứng dậy, như ngày xưa đứng gác.
Hùng vĩ, tự hào, nghe gọi điểm danh.

Không phải hiểm trở núi rừng cách biêt hai bên đồn ải
Mà con đường sắt bạn bè nối chặt hai ga biên giới
Nơi thuở trước, tiễn chân nhau, vắng vẻ một làn mây
Hộ chiếu đi về, màu đỏ nắm trong tay

Đứng một mình
cheo leo
một góc
trời biển xanh rì
An Ba Ni
như con tàu đi
trong bão táp

Núi An Ba Ni như gươm như mác
Như đội ngũ năm trăm năm xưa của Scăng-đec-bec
Biển An Ba Ni sôi nổi bốn bề
Như lịch sử An Ba Ni trường kỳ sóng đập

Tôi đi giữa Ti Ra Na
“Thành phố chiến luỹ”
Bước lần theo trang sử hôm qua
Còn ghi trên mỗi phố mỗi nhà
Khi mỗi người dân một người chiến sĩ

Những bàn tay
Tát cạn bãi lầy
Nắm những lưỡi cày bất khuất
Đã trồng cuộc đời mới mọc
Trên những đồi cây ô liu
Nổi sóng một màu xanh nghìn dặm hát

Đứng một mình
cheo leo
một góc
trời biển xanh rì
An Ba Ni
như con tàu đi
trong bão táp

Em có bao giờ nửa đêm thức dậy
Nghe ngọn gió phương này thổi sang phương ấy
Đấy là hồn anh đang thở đêm đêm
Đi giữa đất trời đến hát ru em…

Con tàu đưa tôi đi
Qua đêm Xi-bê-ri
Giá buốt
Thương người đi đày xưa
Bước trong gió tuyết

Ôi ngọn gió Xi-bê-ri
Phẫn nộ và hoang vắng
Mấy trăm năm thổi trong những cuốn sách Nga
Lịch sử mênh mông một màu lạnh trắng!

Nhưng cuộc sống
Đã trồng cây, đã thắp đèn
Thắp những nụ cười
vui như
lửa hàn nhấp nháy
Con tàu đi – nghi ngút hai bên:
Những ngôi nhà mọc như lò sưởi
Những con người ấm như ngọn khói

Đêm nay
qua Xi-bê-ri
Vẫn nghe gió thổi
Nhưng lòng tôi cũng đã lên đèn
Theo thành phố mới

Thôn xóm ta trồng cây lại tiếp cây
Xanh một màu xanh nối nước liền mây
Nghìn dặm đường vui, rì rào đất nước
Trong bước chân ta đi vội đêm ngày

Gặp một chiến sĩ Giải phóng quân miền Nam

Gặp anh trên đường đi chiến đấu
Tôi ôm anh
Như ôm nửa thân tôi đẫm máu
Thấy thịt da anh đau xót thịt da mình

Áo anh nhuộm bụi đường nào trong ấy
Xanh gió Tuy Hoà hay bạc nắng Phan Rang?
Ấm áp những đường may, có phải
Bàn tay nhớ thương mẹ già ta đấy?
Tôi nghe trong hơi thở mặn nồng
Những suối, những sông, những cánh rừng anh đã thấy
Phải tiếng trống xóm làng ta đứng dậy
Vẫn rền trong giọng nói của anh không?
Cuộc đời anh, cho tôi chia một nửa
Nửa giọt mồ hôi vạt áo còn đầm
Nửa dãy Trường Sơn thác ghềnh vất vả
Nửa nắm cơm hạt muối nhọc nhằn
Một nửa trận nắng
Một nửa cơn mưa
Ta chia nhau
như những ngày kháng chiến năm xưa
Nửa đêm miền Nam hai mươi năm không ngủ
Nửa ngày miền Nam đỏ cờ đỏ lửa
Một nửa trận đánh, một nửa vết thương
Nếu tôi ngã xuống
Hãy chôn tôi trên mảnh đất các anh nằm
Mảnh đất xanh biếc tâm hồn anh Trỗi, anh Đang
Bụi lúa gốc cây điệp trùng kêu gọi
Kiêu hãnh bao nhiêu nếu trên đất ấy
Có bước chân mình trong những bước hành quân

Bom nó bằng gang
Tay ta bằng sắt
Hỡi con sông sâu
Cầu ta lại bắc

Hỡi những con đường
Đừng đau chia cắt
Nối nhịp thuỷ chung
Đinh ta đóng chặt

Ta đứng đêm ngày
Bốn bên khói lửa
Hai tay ta đỡ
Bạt ngàn quân đi

Góp vào tiếng súng
Một tiếng dô ta
Mỗi chuyến xe qua
Chở cả lòng ta
Theo ra mặt trận

Sông vỗ trùng trùng
Nhịp cầu điệp điệp
Đưa cả đất nước
Đi về phía nam

Những buổi vui sao, cả nước lên đường,
Xao xuyến bờ tre, từng hồi trống giục

Xóm dưới làng trên, con trai con gái
Xôi nắm cơm đùm, ríu rít theo nhau
Súng nhỏ súng to, chiến trường chật chội
Tiếng cười hăm hở, đầy sông đầy cầu

Bộ đội dân quân, trùng trùng điệp điệp
Chào nhau không kịp nhớ mặt
Dô hò nón vẫy theo,
Hàng ngũ ta đi dài như tiếng hát

Chào những ngôi trường ngói đỏ bình yên
Lấp lánh cánh đồng đang gặt đang hái
Xuôi ngược công trường những bánh xe reo
Ngọn khói con tàu như tay vẫy gọi

Đất nước mình đây,
Hai mươi năm
mưa, nắng, đêm, ngày
Hành quân không mỏi
Sung sướng bao nhiêu: tôi là đồng đội
Của những người đi, vô tận, hôm nay.

Yểm hộ miền Nam
Thình thình đại bác
Nhịp những bước chân
Cả nước
lên đường

Em đến trường
Tay cầm cuốn vở
Gió thổi đời em
Lật từng trang mở
Trường mới
như tâm hồn em
Lợp toàn ngói đỏ

Tóc xanh mát bóng cây
Thơm mùi trang giấy mới
Vui với em phơi phới
Tổ quốc lớn từng ngày

Chúng mang bom nghìn cân
Giội lên trang giấy
Mỏng như một ánh trăng ngần
Hiền như lá mọc mùa xuân

Ôi từng trang giấy
Trong lòng anh, đập khẽ, đêm nay
như bàn tay vẫy
như một bàn tay ròng ròng máu chảy!

Nếu em sống lại
Anh đi một nghìn đêm
Để giành lấy cho em
Một ngày không sợ hãi

Trận địa thức bên em
Bóng quân thù hung ác
Không che được ánh đèn
Soi cho em ngồi học

Ôi ánh đèn thúc giục
Như mệnh lệnh hành quân

Hà Nội
một góc vườn hoa
Đơn vị chúng ta
Đến xây trận địa
Tạm xếp sang bên những hàng ghế đá

Hôm nay
Hà Nội lại đi vào khói lửa

Trận địa ta xây
Trên những công trình dang dở
Ta đi – gian khổ mười năm
Thương quê hương cỗi cằn tàn phá
Về Hà Nội
vất vả mười năm
Ta mới trồng xong chút màu hoa lá
Trận địa của ta
Là một ngôi trường mới mở
Những ánh mắt ngời ngời hai hàng cửa sổ
Trận địa của ta là sân
Một vườn trẻ bây giờ bỏ vắng
Súng ta kê
bên nôi nhỏ
các em nằm
Từ trận địa
ta bắn chúng
Súng của ta
tính tầm tính hướng
Tính theo góc độ của lòng căm
Đạn ta tính
theo từng giọt mồ hôi
ta đổ xuống
Tưới đất này vất vả mười năm
Những ngôi nhà này không hề biết sợ
Mái này tường này
Quen nhìn gạch đổ
Những con người này quen súng cầm tay
Quen mở chiến hào ngay trên đường phố
Dù phải mười năm, hai mươi năm
Đất nước này quen một mất một còn

Trên đường ta đi đánh giặc
Ta về Nam hay ta lên Bắc,
Ở đâu
Cũng gặp
Những ngọn đèn dầu
Chong mắt
Đêm thâu
Những ngọn đèn không bao giờ nhắm mắt
Như những tâm hồn không bao giờ biết tắt,
Như miền Nam
Hai mươi năm
Không đêm nào ngủ được,
Như cả nước
Với miền Nam
Đêm nào cũng thức…
Soi cho ta đi
Đánh trận trường kỳ
Đèn ta thắp niềm vui theo dõi
Đèn ta thắp những lời kêu gọi.
Đi nhanh đi nhanh
Chiến trừõng đã giục
Đầy núi đầy sông
Đèn ta đã mọc.
Trong gió trong mưa
Ngọn đèn đứng gác
Cho thắng lợi, nối theo nhau
Đang hành quân đi lên phía truớc.

Trên đây chúng tôi đã chia sẻ đến các bạn những bài thơ hay, đặc sắc mang đậm tình nghĩa đồng đội, đồng chí. Hy vọng các bạn sẽ cảm nhận được ý nghĩa của những bài thơ tuyệt vời này. Cảm ơn các bạn đã theo dõi bài viết. Hãy luôn đồng hành và ủng hộ uct.edu.vn nhé!

Related posts

Nhà thơ Bùi Hạnh Cẩn và những bản thơ dịch tác giả khác (Phần 2)

admin

Nhà Thơ Huyền Chi Cùng Bài Thơ Thuyền Viễn Xứ Đặc Sắc

admin

Nhà thơ Thái Bá Tân và tuyển tập thơ dịch Alekseyevich Bunin

admin

Leave a Comment