Thơ Hay

Đánh Thức Tiềm Lực – Thi Phẩm đặc sắc của nhà thơ Nguyễn Duy

Đánh Thức Tiềm Lực là một thi phẩm xuất sắc của nhà thơ Nguyễn Duy. Ông là một nhà thơ nổi tiếng được nhiều bạn đọc yêu mến của nước at. Nguyễn Duy có bộ 3 bài thơ theo thể tự do nổi tiếng mang tính thời sự, viết về những trăn trở, suy nghĩ của ông về tương lai đất nước, tương lai của con người và môi sinh. Nổi bật nhất phong cách thơ ông chính là bài thơ này. Hãy đón xem và cùng cảm nhận ý nghĩa sâu sắc của thi phẩm vang danh này nhé!

Tiễn đưa anh S.D. đi làm kinh tế
Hãy thức dậy, đất đai!
cho áo em tôi không còn vá vai
cho phần gạo mỗi nhà không còn thay bằng ngô, khoai, sắn…
xin bắt đầu từ cơm no, áo ấm
rồi thì đi xa hơn – đẹp, và giàu, và sung sướng hơn
Khoáng sản tiềm tàng trong ruột núi non
châu báu vô biên dưới thềm lục địa
rừng đại ngàn bạc vàng là thế
phù sa muôn đời như sữa mẹ
sông giàu đằng sông và bể giàu đằng bể
còn mặt đất hôm nay thì em nghĩ thế nào?
lòng đất rất giàu, mặt đất cứ nghèo sao?

Lúc này ta làm thơ cho nhau
đưa đẩy mà chi mấy lời ngọt lạt
ta ca hát quá nhiều về tiềm lực
tiềm lực còn ngủ yên…

Tôi lớn lên bên bờ bãi sông Hồng
trong màu mỡ phù sa máu loãng
giặc giã từ con châu chấu, con cào cào
mương máng, đê điều ngổn ngang chiến hào
trang sử đất ngoằn ngoèo trận mạc
giọt mồ hôi nào có gì to tát
bao nhiêu đời mặn chát các dòng sông
bao nhiêu thời vỡ đê trắng đất mất đồng
thuyền vỏ trấu mỏng manh ba chìm bảy nổi
khúc dân ca cũng bèo dạt mây trôi
hột gạo nõn nà hao gầy đi vì thiên tai
đói thâm niên
đói truyền đời
điệu múa cổ cũng chậm buồn như đói…

Tôi đã qua những chặng đường miền Trung bỏng rát và dai dẳng
một bên là Trường-Sơn-cây-xanh
bên còn lại Trường-Sơn-cát-trắng
đồng bằng hình lá lúa gầy nhẳng
cơn bão chưa qua, hạn hán đổ tới rồi
ngọn cỏ nhọn thành gai mà trốn không khỏi úa
đất nứt nẻ ngỡ da người nứt nẻ
cơn gió Lào rát ruột lắm em ơi!
Hạt giống ở đây chết đi sống lại
hạt gạo kết tinh như hạt muối
cây lúa đứng lên cũng đạp đất đội trời

Tôi về quê em – châu thổ sáng ngời
sông Cửu Long giãn mình ra biển
đất cuồn cuộn sinh sôi và dịch chuyển
cây mắm cây tràm lặn lội mở đường đi
Đất tân sinh ngỡ ngọt ngào trên mặt
lòng còn chát chua nào mặn nào phèn
má sung sức và ba cường tráng thế
man mác âu sầu trong câu hát ru em
Đã qua đi những huyền thoại cũ mèm
những đồng lúa ma không trồng mà gặt
những ruộng cá không nuôi mà sẵn bắt
những ghểnh cẳng, vuốt râu mà làm chơi ăn thật
miếng ăn nào không nước mắt mồ hôi!
Ruộng bát ngát đó thôi, và gạo đắt đó thôi
đất ghiền phân vô cơ như người ghiền á phiện
con rầy nâu khoét rỗng cả mùa màng
thóc bỏ mục ngoài mưa thiếu xăng dầu vận chuyển
phà Cần Thơ lê lết người ăn xin
cây đàn hát rong não nề câu vọng cổ
quán nhậu lai rai – nơi thừa thiếu trốn tìm

Này, đất nước của ba miền cày ruộng
chưa đủ no cho đều khắp ba miền
ta ca hát quá nhiều về tiềm lực
tiềm lực còn ngủ yên…

Lúc này tôi làm thơ tặng em
em có nghĩ tôi là đồ vô dụng?
vô dụng lấy đi của cuộc sống những gì
và trả lại được gì cho cuộc sống?
Em có nghĩ tôi là con chích choè ăn và gại mỏ?
Em có nghĩ tôi là tay chuyên sản xuất hàng giả?
Em có nghĩ tôi là kẻ thợ chữ đục đẽo nát cả giấy
múa võ bán cao trên trang viết mong manh?
tình nghĩa nhập nhằng với cái hư danh
tờ giấy chép văn thành tờ giấy bạc
Em có nghĩ…
mà thôi!

Xin em nhìn kia – người cuốc đất
(tôi cũng từng chai tay cuốc đất)
cái cuốc theo ta đời này, đời khác
lưỡi cuốc nhỏ nhoi liếm sạch cánh đồng rồi
dướn mình cao
chĩa cuốc lên trời
bổ xuống đánh phập
đẹp lắm chứ cái tạo hình cuốc đất!
Xin em nhìn – người gánh phân, gánh thóc
(tôi cũng từng mòn vai gánh phân, gánh thóc)
kẽo kẹt hai vai một nhịp cầu vồng
đẹp lắm chứ cái tạo hình gồng gánh!
Những cái đẹp thế kia… em có chạnh lòng không?
cái đẹp gợi về thuở ngày xưa ngày xửa
nhịp theo tiết tấu chậm buồn
cái đẹp ấy lẽ ra không nên tồn tại nữa!
Em có chạnh lòng chăng
giữa thành phố huy hoàng bạt ngàn quán nhậu
bỗng hiện lù lù cái xe hơi chạy than
vệt than rơi toé lửa mặt đường
Em có chạnh lòng chăng
xích lô đạp càng ngày càng nghênh ngang
xích lô máy và xe lam chạy dầu vừa nã đại liên vừa phun khói độc
người đi bộ vừa đi vừa nghĩ về tiềm lực
tiềm lực còn ngủ yên…

Tôi trót sinh ra nơi làng quê nghèo
quen cái thói hay nói về gian khổ
dễ chạnh lòng trước cảnh thương tâm
Làng tôi xưa toàn nhà tranh vách đất
bãi tha ma không một cái mả xây
mùa gặt hái rơm nhiều, thóc ít
lũ trẻ chúng tôi vầy đất tối ngày
Thuở tới trường cũng đầu trần chân đất
chữ viết loằng ngoằng củ sắn ngọn khoai
thầy giáo giảng rằng
nước ta giàu lắm!…
lớp lớp trẻ con cứ thế học thuộc bài

Lúc này
tôi và em không còn là lũ trẻ con nữa
ta biết buồn để biết lạc quan
và, để nhắn lại sau ta cho lớp lớp trẻ con
(dù sau này dầu mỏ đã phun lên
quặng bô-xít cao nguyên đã thành nồi thành soong
thành tàu bay hay tàu vũ trụ…
dù sau này có như thế… như thế… đi nữa
thì chúng ta vẫn cứ nên nhắn lại)
rằng
đừng quên đất nước mình nghèo!
Lúc này
tôi và em không còn là lũ trẻ con nữa
tuổi thanh xuân trọn vẹn cuộc chiến tranh
sau lưng ta là kỷ niệm bi tráng
trước mặt ta vẫn con đường gập ghềnh
vẫn trang trọng tấm lòng trung thực
dù có thể lỗi lầm – làm thế nào mà biết trước
dù có sao thì cũng phải chân thành
Xưa mẹ ru ta ngủ yên lành
để khôn lớn ta hát bài đánh thức
có lẽ nào người lớn cứ ru nhau
ru tiềm lực ngủ vùi trong thớ thịt

Tiềm lực còn ngủ yên
trong quả tim mắc bệnh đập cầm chừng
Tiềm lực còn ngủ yên
trong bộ óc mang khối u tự mãn
Tiềm lực còn ngủ yên
trong con mắt lờ đờ thuỷ tinh thể
Tiềm lực còn ngủ yên
trong lỗ tai viêm chai màng nhĩ
Tiềm lực còn ngủ yên
trong ống mũi khò khè không nhận biết mùi thơm
Tiềm lực còn ngủ yên
trong lớp da biếng lười cảm giác
Năng động lên nào
từ mỗi tế bào, từ mỗi giác quan
cố nhiên cần lưu ý tính năng động của cái lưỡi

Cần lưu ý
lời nói thật thà có thể bị buộc tội
lời nịnh hót dối lừa có thể được tuyên dương
đạo đức giả có thể thành dịch tả
lòng tốt lơ ngơ có thể lạc đường
Cần lưu ý
có cái miệng làm chức năng cái bẫy
sau nụ cười là lởm chởm răng cưa
có cái môi mỏng rát hơn lá mía
hôn má bên này bật máu má bên kia
có trận đánh úp nhau bằng chữ nghĩa
khái niệm bắn ra không biết lối thu về
Cần lưu ý
có lắm sự nhân danh lạ lắm
mượn áo thánh thần che lốt ma ranh
nhân danh thiện tâm làm điều ác đức
rao vị nhân sinh để bán món vị mình
Cần lưu ý
có lắm nghề lạ lắm
nghề mánh mung cứa cổ bóp hầu nhau
nghề chửi đổng, nghề ngổi lê, nghề vu cáo
nghề ăn cắp lòng tin và chẹt họng đồng bào
có cả nghề siêu nghề gọi là nghề không làm gì cả
thọc gậy bánh xe cũng một thứ nghề…
Bộ sưu tập những điều ngang trái ấy
phù chú ma tà ru tiềm lực ngủ mê

Tôi muốn được làm tiếng hát của em
tiếng trong sáng của nắng và gió
tiếng chát chúa của máy và búa
tiếng dẻo dai đòn gánh nghiến trên vai
tiếng trần trụi của lưỡi cuốc
lang thang
khắp đất nước
hát bài hát
ĐÁNH THỨC TIỀM LỰC…

Có những người đánh thức tiềm lực không biết mệt mỏi, dám “xé rào cơ chế”, dám “chịu nghe” lời khác, ngược lại công thức phát ngôn chính thống, dám hành động vừa quyết đoán vừa nhân tình… chúng ta mới có được một con đường đổi mới…

Hồi này, thời thế “dễ thở hơn” rồi. Thẫn thờ nhớ một “thời khó thở”, thời hậu chiến gian khổ, kéo dài hơn một thập kỷ sau 1975.

30-4-1975, cả dân tộc thở phào nhẹ nhõm trút gánh nặng 30 năm máu lửa khốc liệt. Một thằng lính làm thơ là tôi không chỉ thở phào mà còn nhảy dựng lên, hát toáng lên: ”… Tôi đi tìm thân nhân qua rừng già nguyên thuỷ/ tôi đi tìm thân nhân qua rừng kẽm gai Mỹ/… Hỡi ai không gặp thân nhân/ xin cùng tôi chung mái nhà ấm áp/ là nguyên vẹn nhân dân – Tổ quốc/ ta hành hương trên đất đai sum họp/ nơi nào cũng có thân nhân!…“ (Tìm thân nhân – 1975).

Phơi phới vui hoà bình, thống nhất. Và hi vọng xanh rờn. Trên đất đai này chỉ còn người Việt Nam với nhau. Đã có người tếu táo rằng: “Từ nay sẽ không còn kẻ ngoại bang nào dám đụng đến cái lông chân của người Việt Nam!“. Vậy mà đáng tiếc thay, chính người Việt Nam với nhau lại đưa nhau vào một thời ngạt thở mới.

Thời đó, sau 1975, bạt ngàn lính giải ngũ, trở lại nơi xóm làng xơ xác sau chiến tranh. Triệt để hợp tác hoá ở nông thôn. Đánh tư sản, triệt nhà giàu ở thành thị. Kẻ vào trại học tập cải tạo, không bản án, không thời hạn. Người ra biển vượt biên không hẹn ngày về, phó mặc sinh mạng cho sóng gió và ma quỉ. Đất nước liền một dải mà lắm nhà lại lâm cảnh ly tán. Mà cõi lòng lại đau nỗi cắt chia mới. Lương thực viện trợ của nước ngoài như hồi chiến tranh không còn nữa. Nạn đói hoành hành khắp nước. Đột ngột lính Pol Pot tràn sang, thảm sát dã man dân lành suốt một dải biên giới Tây Nam. Lại đột ngột súng nổ, lại chết người, lại cháy nhà, suốt toàn tuyến biên giới phía Bắc. Một thằng lính làm thơ là tôi đã cởi áo lính rồi, lại cùng lính ra mặt trận phía Nam, lên mặt trận phía Bắc. Lại đột ngột làm thơ trận mạc: ”… Biên ải xưa giặc dã mới tràn vào/ máu lửa ngỡ cũ rồi mà vẫn mới/ gian truân xưa cứ tưởng đã cũ rồi…“ (Lên mặt trận ngày đầu – Lạng Sơn 17-2-1979).

Nền kinh tế quốc gia “tuột dốc theo chiều rơi thẳng đứng” (chữ của nhà thơ Tố Hữu, Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng lúc bấy giờ). Lại thiếu gạo. Lại đứt bữa. Lại thấy người ăn mày đầy đường. Lại ăn độn đủ cả sắn, ngô, khoai, bo bo, mì sợi, mì bột, mì hột. Nhà tôi bắt đầu nuôi lợn trên lầu ba… “nâng con lợn lên ngang tầm thời đại!…”

Thời đó, gia đình tôi ở trong khu tập thể Hội Văn nghệ TPHCM: ”… lầu ba, nhà 190 Nam Kỳ Khởi Nghĩa/ tiếng tắc kè nhỏ giọt trong đêm/ tiếng mưa rừng nhỏ giọt trong trí nhớ/ vết đạn trên tường dù trát lại vẫn có màu vôi khác…“. Nghe tiếng tắc kè kêu trong thành phố, nhìn thấy ánh trăng một đêm cúp điện, lại nhớ về những cánh rừng xưa, những bạn lính cũ. Lại thương đến nhão lòng những ước mơ đơn sơ, mộc mạc một thời. Về với mẹ. Về với vợ con. Về với thanh bình vườn ruộng. Về để làm cho dân giàu nước mạnh. Sắp về!… Sắp về!… Con tắc kè trên rừng cây “giơ xương trắng lên trời” do chất độc khai quang hồi đó, nó nói thế. Nó nhắc thế. Nó cứ điệp khúc thế. Cái điệp khúc mơ của người lính trận.

Một cựu binh là tôi lại bắt đầu mơ một điệp khúc mơ đơn sơ mộc mạc khác: “Hãy thức dậy, đất đai!/ cho áo em tôi không còn vá vai/ cho phần gạo mỗi nhà không còn thay bằng ngô, khoai, sắn…“.

Và bắt đầu một nỗi day dứt khác: ”… Khoáng sản tiềm tàng trong ruột núi non/ châu báu vô biên dưới thềm lục địa/ rừng đại ngàn bạc vàng là thế/ phù sa muôn đời như sữa mẹ/ sông giàu đằng sông và bể giàu đằng bể/ còn mặt đất hôm nay – em nghĩ thế nào?/ lòng đất rất giàu, mặt đất cứ nghèo sao?…“.

Đó là nỗi day dứt của một thường dân. Kèm theo là nỗi day dứt của một thường dân làm thơ: ”… Lúc này ta làm thơ cho nhau/ đưa đẩy mà chi mấy lời ngọt lạt/ ta ca hát quá nhiều về tiềm lực/ tiềm lực còn ngủ yên…“.

Thêm rồi bớt, viết rồi sửa, đến giữa năm 1982 bài thơ dài ra thành vài trăm dòng. Tôi tự thấy nó còn nôm na lắm, ngôn ngữ thơ chưa được. Nhưng cái được ở đây là tâm tình thật của tôi. Thôi, cứ để thế. Tôi dừng bài thơ lại với đoạn kết: “Tôi muốn được làm tiếng hát của em/ tiếng trong sáng của nắng và gió/ tiếng chát chúa của máy và búa/ tiếng dẻo dai đòn gánh nghiến trên vai/ tiếng trần trụi của lưỡi cuốc/ lang thang khắp đất nước/ hát bài hát đánh thức tiềm lực!“.

Bài thơ đi từ trong lòng ra nên tôi thuộc lòng nó ngay từ lúc vừa viết vừa sửa, cứ lẩm bẩm một mình như lên cơn thần kinh. Thời đó, thơ như thế là “gai góc” quá, thậm chí là “phản động”, không những bị cấm in mà còn bị cấm đọc. Cái thời hễ có ai phát ngôn khác đi so với công thức phát ngôn chính thống thì đều bị qui là “phản động”, bị “kiểm thảo”, bị “kỷ luật”…

Thế mà ngay khi tôi vừa viết xong bài Đánh thức tiềm lực, đột ngột được tin lão thi sĩ Hoàng Cầm bị tống ngục Hoả Lò chỉ vì tội tự ý phát tán bản chép tay tập thơ Kinh Bắc của chính ông, trong đó có bài Lá diêu bông “ám chỉ chủ nghĩa xã hội là không tưởng”. Tôi không khỏi chột dạ. Tự xem xét lại mình, thơ của tôi rõ ràng là có “rất nhiều vấn đề”. Xin nhớ cho, lúc đó là giữa năm 1982.

”… Lời nói thật thà có thể bị xử tội/ lời nịnh hót, dối lừa có thể được tuyên dương/… có cái miệng làm chức năng cái bẫy/ sau nụ cười là lởm chởm răng cưa/ có cái môi mỏng ráp hơn lá mía/ hôn má bên này bật máu má bên kia/ có trận đánh úp nhau bằng chữ nghĩa/ khái niệm bắn đi không biết lối thu về…/ Cần lưu ý có lắm nghề lạ lắm/ nghề mánh mung cứa cổ bóp hầu nhau/ nghề chửi đổng, nghề ngồi lê, nghề vu cáo/ nghề ăn cắp lòng tin và chẹt họng đồng bào/ có cả nghề siêu nghề gọi là nghề không làm gì cả/ thọc gậy bánh xe cũng một thứ nghề…“ (đoạn viết năm 1980).

Viết thế ấy thì in ở đâu và đọc cho ai? Chỉ dám đọc chơi với vài bạn rượu tri kỷ. Được đoạn nào “rỉ tai” đoạn nấy, từng đoạn, từng đoạn rời rạc. Nhà văn Nguyễn Quang Sáng an ủi tôi: “Cứ đợi đấy, rồi sẽ đến hồi có người nghe và có người in”. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn thì “triết” hơn: “Sự chân thành tự nó hoá giải bế tắc. Hãy xem lại cái cây mình có thật ngay thẳng không. Cây ngay chẳng sợ chết đứng”. Tôi đã thấy những “cây ngay” mà vẫn bị “chết đứng”, nên lòng cứ thấp thỏm một nỗi lo ngại không xác định, tự nhủ mình phải giữ gìn, chớ hớ hênh mà rước vạ.

Khốn nỗi, cũng giống như có ghẻ phải gãi, có thơ không thể không đọc. Không được in thì cứ đọc, mai sau dù có ra sao cũng đành… (một câu hát của Trịnh Công Sơn). Oái oăm thay, lần đầu tiên tôi công bố Đánh thức tiềm lực, đọc liền mạch hoàn chỉnh toàn bài thơ, lại là đọc tặng một người thuộc lớp người “đáng sợ” nhất lúc bấy giờ: ông Sáu Dân, tức Võ Văn Kiệt – uỷ viên Bộ Chính trị, bí thư Thành uỷ TP.HCM.

Hồi đó, khoảng đầu thu năm 1982, ông Sáu sắp sửa thôi giữ chức bí thư Thành uỷ để ra Hà Nội làm Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng kiêm chủ nhiệm Uỷ ban Kế hoạch nhà nước. Ông Nguyễn Quang Sáng chợt nảy sáng kiến họp mặt vài anh em bạn ruột (ngay tại căn hộ lụp xụp của ông trong khu tập thể 194B Nam Kỳ Khởi Nghĩa) để mời ông Sáu đến… chơi! “Quí trọng ông Sáu thì tụi mình mới mời ổng uống ly rượu đế. Trước, để coi ổng có chịu đến chơi không. Sau, để nói thẳng nói thật với ổng chút ít tâm sự của tụi mình về tình hình thế sự”. Ông Sáng xác định “mục đích và ý nghĩa” cuộc gặp như vậy, rồi gọi điện thoại “thử” xin nói trực tiếp với ông Sáu. Ông Sáu nhận lời ông Sáng.

Với nét cười hồn hậu, cởi mở, ông Sáu nói rất ít, không một lời “huấn thị”, chỉ kể một kỷ niệm vui vui hồi chiến tranh, rồi chăm chú lắng nghe chúng tôi hát và “tự do ngôn luận”. Nguyễn Quang Sáng nói chuyện viết và lách, viết đã khó, lách còn khó hơn. Trịnh Công Sơn vừa hát tình ca vừa góp ý với lãnh đạo thành phố về vấn đề… ẩm thực. Trần Long Ẩn trổ tài “ca bài ca cà chớn”, những ca khúc lời nhại hài hước diễu cợt cả thời đại. Còn tôi, không biết nói gì hơn là “xin đọc tặng anh Sáu một bài thơ vừa ráo mực, bài Đánh thức tiềm lực…”.

Xin chèn ngang một mẩu chuyện cũ… Tôi chỉ mới được gặp ông Sáu có mỗi một lần, khoảng giữa năm 1981, trong buổi tổng kết cuộc sinh hoạt chính trị (do nhà thơ Bảo Định Giang điều hành) chuẩn bị thành lập Hội nhà văn TP.HCM. Thấy nhiều người đọc thơ tặng ông Sáu, tôi cũng đọc, bài Ông già Hậu Giang ngang tàng (bản in sau đó đổi ra Ông già Nam bộ), và bài Bán vàng – để “báo cáo” với bí thư thành uỷ về đời sống thực của số đông thi sĩ lúc bấy giờ. Khúc dạo đầu còn e ngại lắm, nơm nớp lo có người ngăn cản: “… Tâm hồn ta là một khối vàng ròng/ đành đem bán bớt đi từng mảnh nhỏ/ Ta mơ màng, ta uốn éo, ta lả lơi/ để mặc kệ mái nhà xưa dột nát/ mặc kệ áo quần thằng cu nhếch nhác/ mặc kệ bàn tay mẹ nó xanh xao/ ta rất gần bể rộng với trời cao/ để xa cách những gì thân thuộc nhất…”

Sau cuộc họp đó tôi không những không bị “búa” như dự đoán của tôi và của nhiều người khác, mà lạ thay còn được người thư ký của bí thư thành uỷ tìm gặp: “Anh Sáu nhắn cậu chép tặng anh ấy bài Bán vàng và bài Ông già Hậu Giang để làm kỷ niệm tình cảm”. Tôi hơi ngại, hỏi lại Nguyễn Quang Sáng: “Liệu có phải ông Sáu cần văn bản chứng cớ để xử lý?…”. Ông Sáng nói: “Chắc không phải. Nếu muốn xử, ổng chỉ cần ra lệnh”. Tôi bèn chép hai bài thơ và không quên ghi cẩn thận dưới tên mỗi bài: Tác giả chép tặng anh Sáu Dân để làm kỷ niệm tình cảm.

Ít lâu sau, tại cuộc gặp gỡ nhân dịp đại hội thành lập các hội nghệ thuật chuyên ngành của thành phố, với tư cách bí thư thành uỷ, ông Sáu nói chuyện với đông đảo văn nghệ sĩ. Trong bài nói không dài đó của ông Sáu Dân có một đoạn tôi không bao giờ quên: “Vừa qua, tôi đã nghe và đã đọc bài thơ Bán vàng của nhà thơ Nguyễn Duy. Theo tôi, đó là một bản án nhân tình đối với chế độ của chúng ta. Đau, nhưng là sự thật. Chúng ta cần chân thành nhìn nhận sự thật để cùng nhau vươn lên, vượt qua giai đoạn khó khăn. Muốn vượt lên thì phải có niềm tin. Mà cốt lõi của niềm tin là tin ở con người…”.

Lần đầu tiên tôi trực tiếp nghe một bài huấn thị chính trị như thế, trực tiếp thấy một nhà lãnh đạo chính trị ứng xử như thế. Đó là khoảng giữa năm 1981. Quả là bất ngờ. Tự nhiên tôi xúc động, vì một cái gì đó mà tôi chưa biết gọi nó là cái gì, hình như nó chỉ là cái lẽ nhân tình bình thường mà sao ta ít thấy ở những vị quan lớn. Và, tự nhiên tôi cảm thấy tin ông…

Lúc này, với tất cả nỗi niềm “tin ở con người”, tôi lại trang trọng kính tặng ông Sáu một “rừng gai góc” mới. Tôi đứng ngay ngắn, nhìn thẳng ông Sáu mà đọc, thấy ông không cười cười nữa, hơi cúi đầu đăm chiêu với gương mặt bình thản không phơi lộ cảm xúc. Tôi cũng bình tâm làm phận sự của mình: ”… Xưa mẹ ru cho ta ngủ yên lành/ để khôn lớn ta hát bài đánh thức/ có lẽ nào người lớn cứ ru nhau/ ru tiềm lực ngủ vùi trong thớ thịt/ Tiềm lực còn ngủ yên trong quả tim mắc bệnh đập cầm chừng/ Tiềm lực còn ngủ yên trong bộ óc mang khối u tự mãn”.

Không ngắc ngứ, không ngừng nghỉ, tôi kéo một lèo khoảng 10 phút cho đến hết bài thơ. Thấy ai nấy ngồi lặng. Ông Sáu cũng im lặng chốc lát, mới chậm rãi: “Nặng lắm. Nhưng chịu được”. Hình như ông vừa trải qua một cuộc tra tấn. Rồi ông tiếp: “Nếu kể về cái tiêu cực thì tôi kể cả ngày không hết. Còn nếu kể về cái tích cực thì tôi kể cả tuần cũng không hết. Nhưng vấn đề ở đây không phải là chống tiêu cực hay biểu dương tích cực. Vấn đề ở đây là con người, là văn hoá. Con người có thức dậy thì đất đai mới thức dậy được…”.

Nghe ông Sáu, tôi thở phào nhẹ nhõm, trút bỏ nỗi lo ngại không xác định lâu nay vốn nặng trĩu lòng. Thì ra những câu thơ “khó chịu” thế kia không phải chờ đến mai sau mới có người lắng nghe và chia sẻ. Những người “chịu nghe” và “chịu được” loại thơ “nặng lắm” ấy đã hiện diện quanh tôi ngay từ “thời khó thở” đó.

Sau cuộc đọc thơ đó, tôi bèn đem Đánh thức tiềm lực đi đọc và “phát tán” ở nhiều nơi. Có nơi “hoan hô nhiệt liệt”, mời đọc, cho phát hành bài thơ bằng băng ghi âm hoặc bản in rônêô. Lại có nơi cấm đọc, cấm lưu hành cũng bài thơ đó. Nó xuất hiện muộn hơn trên mặt báo và sách. Lần đầu tiên Đánh thức tiềm lực được in là trên tờ Văn nghệ Đồng Nai do nhà thơ Xuân Sách làm tổng biên tập, số tháng 12-1984. Nhưng tờ báo văn tỉnh lẻ này chỉ ra mỗi tháng một kỳ, mỗi kỳ mấy trăm bản, loanh quanh trong “xóm” Đồng Nai, ít ai biết đến.

Mãi cuối năm 1986, sau nghị quyết “Đổi mới” của Đại hội VI Đảng Cộng sản VN – được coi là đại hội “mở cửa” và “cởi trói” – bài Đánh thức tiềm lực mới được đăng nguyên văn trên báo Tuổi Trẻ, được phát hành khắp trong nước và ngoài nước. Năm 1987, Đánh thức tiềm lực có mặt đàng hoàng trong tập thơ “Mẹ và em” cùng với bài viết “Đi tìm tiềm lực trong thơ Nguyễn Duy” của Nguyễn Quang Sáng (Nhà xuất bản Thanh Hoá). Và từ đó nó đã được chọn vào nhiều tuyển tập. Có một dòng đề từ ngay dưới tên bài thơ, tôi viết thêm sau cuộc đọc thơ vừa kể, để ghi nhớ một kỷ niệm sâu sắc thời kỳ trước đổi mới: “tiễn đưa anh Sáu Dân đi làm kinh tế”. Chính nhờ có những người-đánh-thức-tiềm-lực không biết mệt mỏi, những người dám “xé rào cơ chế”, dám “chịu nghe” những gì khác đi, thậm chí là ngược lại cái công thức phát ngôn chính thống, dám hành động vừa quyết đoán vừa nhân tình… như ông Sáu Dân, chúng ta mới có được một con đường đổi mới với những ngày “dễ thở hơn” như hôm nay

Trên đây, uct.edu.vn đã dành tặng bạn bài thơ Đánh Thức Tiềm Lực vang danh nổi bật cho phong cách thơ của thi sĩ Nguyễn Duy. Với những vần thơ mang tính thời sự cao, bài thơ này của ông được bạn đọc yêu mến và ca tụng. Đến ngày nay, bài thơ này vẫn vẹn nguyên giá trị. Cảm ơn các bạn đã theo dõi bài viết này của chúng tôi!

Related posts

Bài thơ Hãy biết phận mình – Nhà thơ Nguyễn Đình Huân

admin

Bài thơ Đà Lạt mùa thu – Nhà thơ Nguyễn Đình Huân

admin

Ở Hai Đầu Nỗi Nhớ – Thi phẩm đi cùng năm tháng của Trần Đình Chính

admin

Leave a Comment