Nhà Thơ Nổi Tiếng

Lý Bạch – Nhà thơ Đường nổi tiếng về Uống rượu ngâm thơ

Lý Bạch một nhà thơ lỗi lạc của nền văn học Trung Hoa, với tài năng thiên phú về thơ ca, Lý Bạch có đóng góp vô cùng to lớn đối với sự nghiệp thơ ca Trung Quốc. Lý Bạch nổi tiếng với phong cách uống rượu ngâm thơ hiếm có. Ông có nhiều thi phẩm vang danh đồ sộ được nhiều người ngưỡng mộ, mỗi một bài thơ là một kiệt tác phản ánh tâm tư, tình cảm của nhà thơ. Cùng tìm hiểu về nhà thơ Lý Bạch và những áng thơ bất hủ của ông nhé.

Nội Dung

-Lý Bạch 李白 (701-762) tự Thái Bạch 太白, hiệu Thanh Liên cư sĩ 青蓮居士, sinh ở Tứ Xuyên (làng Thanh Liên, huyện Chương Minh, nay là huyện Miện Dương)

-Ông sinh ra trong một gia đình thương nhân giàu có. Lúc nhỏ ông ưa thích học võ, học ca múa, lớn lên ông thích ngao du sơn thủy, ngắm trăng, làm thơ.

-Sau đó ông được một người bạn tiến cử vào cung, nhưng nhà vua chỉ dùng ông như một “văn nhân ngự dụng” nên ông bất mãn và rời khỏi cung. Ông kết bạn với Đỗ Phủ, với sở thích giống nhau thường thích ngắm trăng, săn bắt. Sau đó ông lại tiếp tục đi ngao du sơn thủy và những năm cuối đời ông ở ẩn tại Lư Sơn.

-Có sự tích lưu truyền về cái chết của Lý Bạch như sau: ông đã chết đuối khi nhảy khỏi thuyền để bắt cái bóng phản chiếu của mặt trăng.

Sự nghiệp sáng tác thơ của Lý Bạch

-Sau khi nhà thơ Lý Bạch mất, Lý Đăng Dương đã sưu tầm thơ ông có khoảng 20.000 bài nhưng hiện nay chỉ còn giữ được 1.800 bài.
Thơ của Lý Bạch với nhiều chủ đề khác nhau đó là cảnh đẹp ánh trăng, vịnh cảnh, nỗi đau khổ của người dân… mỗi một áng thơ đều chất chứa những tâm tư, tình cảm của nhà thơ.

Lý Bạch là một thi sĩ vang danh với nhiều bài thơ đặc sắc và giá trị. Để giúp các bạn hiểu thêm về phong cách thơ ông thì ngay bây giờ chúng ta hãy cùng nhau theo dõi bài viết này ngay nhé!

鸚鵡洲
鸚鵡來過吳江水,
江上洲傳鸚鵡名。
鸚鵡西飛隴山去,
芳洲之樹何青青。
煙開蘭葉香風暖,
岸夾桃花錦浪生。
遷客此時徒極目,
長洲孤月向誰明?

Anh Vũ châu
Anh vũ lai quá Ngô giang thuỷ,
Giang thượng châu truyền Anh Vũ danh.
Anh vũ tây phi Lũng sơn khứ,
Phương châu chi thụ hà thanh thanh.
Yên khai lan diệp hương phong khởi,
Ngạn giáp đào hoa cẩm lãng sinh.
Thiên khách thử thời đồ cực mục,
Trường châu cô nguyệt hướng thuỳ minh?

Dịch nghĩa
Chim anh vũ xưa bay đến sông Ngô
Bãi trên sông mới truyền lại tên Anh Vũ
Chim anh vũ đã bay về Tây qua núi Lũng
Bãi thơm cây xanh biếc làm sao!
Khói toả ra từ lá cây lan làm gió thơm nổi dậy
Bờ liền với hoa đào, sóng gấm sinh
Lúc ấy người đi đày trông hoài cõi xa
Trên bãi dài mảnh trăng cô đơn còn soi sáng cho ai.

(Năm 760)

Lý Bạch năm 56 tuổi bị lưu đày đi huyện Dạ Lang tỉnh Quý Châu. Khi chờ đò ngang để qua sông Trường Giang, ông làm bài này.

灞陵行送別
送君灞陵亭,
灞水流浩浩。
上有無花之古樹,
下有傷心之春草。
我向秦人問路跂,
雲是王粲南登之古道。
古道連綿走西京,
紫闕落日浮雲生。
正當今夕斷腸處,
驪歌愁絕不忍聽。

Bá Lăng hành tống biệt
Tống quân Bá Lăng đình,
Bá thuỷ lưu hạo hạo.
Thượng hữu vô hoa chi cổ thụ,
Hạ hữu thương tâm chi xuân thảo.
Ngã hướng Tần nhân vấn lộ kỳ,
Vân thị Vương Xán nam đăng chi cổ đạo.
Cổ đạo liên miên tẩu Tây kinh,
Tử khuyết lạc nhật phù vân sinh.
Chính đương kim tịch đoạn trường xứ,
“Ly ca” sầu tuyệt bất nhẫn thính.

Dịch nghĩa
Tiễn ông nơi đình Bá Lăng,
Sông Bá chảy mênh mông.
Trên cây cổ thụ không thấy hoa,
Dưới đất cỏ xuân như lộ vẻ thương tâm.
Tôi hỏi đường người đất Tần tại ngã rẽ chia tay,
Đáp rằng chính là con đường xưa Vương Xán đi về nam.
Đường cũ xa vời vợi dẫn tới Tây kinh,
Mây chiều đang nổi trên hoàng cung.
Đúng vào lúc chiều tà chia tay buồn đứt ruột,
Ai hát bài “Ly Ca” không còn lòng dạ đâu mà nghe.

Bá Lăng ở hướng đông nam, cách kinh thành Trường An khoảng 30 dặm, có sông Bá chảy qua. Trên bờ khúc sông này có lăng vua Hán Văn Đế, nên chỗ này kêu là Bá Lăng.

巴女詞
巴水急如箭,
巴船去若飛。
十月三千里,
郎行幾時歸?

Ba nữ từ
Ba thuỷ cấp như tiễn,
Ba thuyền khứ nhược phi.
Thập nguyệt tam thiên lý,
Lang hành kỷ thì quy?

Dịch nghĩa
Sông xứ Ba chảy xiết như tên bắn,
Thuyền nhỏ xứ Ba lướt như bay.
Chàng đi có ba ngàn dặm, mà đã mười tháng rồi,
Bao giờ chàng mới trở về?

Ba là tên một nước thời cổ, nay là huyện Ba Trung, tỉnh Tứ Xuyên.

把酒問月
青天有月來幾時,
我今停杯一問之。
人攀明月不可得,
月行卻與人相隨。
皎如飛鏡臨丹闕,
綠煙滅盡清輝發。
但見宵從海上來,
寧知曉向雲間沒。
白兔搗藥秋復春,
嫦娥孤棲與誰鄰。
今人不見古時月,
今月曾經照古人。
古人今人若流水,
共看明月皆如此。
唯願當歌對酒時,
月光常照金樽裡。

Bả tửu vấn nguyệt
Thanh thiên hữu nguyệt lai kỷ thì,
Ngã kim đình bôi nhất vấn chi!
Nhân phan minh nguyệt bất khả đắc,
Nguyệt hành khước dữ nhân tương tuỳ.
Kiểu như phi kính lâm đan khuyết,
Lục yên diệt tận thanh huy phát
Đãn kiến tiêu tòng hải thượng lai,
Ninh tri hiểu hướng vân gian một.
Bạch thố đảo dược thu phục xuân,
Thường nga cô thê dữ thuỳ lân.
Kim nhân bất kiến cổ thì nguyệt,
Kim nguyệt tằng kinh chiếu cổ nhân.
Cổ nhân kim nhân nhược lưu thuỷ,
Cộng khan minh nguyệt giai như thử.
Duy nguyện đương ca đối tửu thì,
Nguyệt quang thường chiếu kim tôn lý.

Dịch nghĩa
Trời xanh có vầng trăng đã bao lâu rồi?
Nay ta ngừng chén hỏi trăng đây!
Người thường không thể vin với được vầng trăng sáng,
Trăng đi đâu thì vẫn cứ theo người.
Ánh sáng trắng như gương vút tận cửa son,
Khói biếc tan đi hết, để lộ vẻ trong trẻo lan tỏa ra.
Chỉ thấy ban đêm trăng từ biển tới,
Nào hay sớm lại tan biến giữa trời mây.
Thỏ trắng giã thuốc mãi thu rồi lại xuân,
Thường Nga lẻ loi cùng ai bầu bạn?
Người ngày nay không thấy bóng trăng xưa.
Trăng nay thì đã từng soi người xưa.
Người xưa nay tựa như giòng nước chảy,
Cùng ngắm vầng trăng sáng như vậy đó.
Chỉ mong trong lúc ca say trước cuộc rượu,
Ánh trăng cứ mãi sáng soi vào chén vàng.

白頭吟
錦水東北流,
波蕩雙鴛鴦。
雄巢漢宮樹,
雌弄秦草芳。
寧同萬死碎綺翼,
不忍雲間兩分張。
此時阿嬌正嬌妒,
獨坐長門愁日暮。
但愿君恩顧妾深,
豈惜黃金買詞賦。
相如作賦得黃金,
丈夫好新多異心。
一朝將聘茂陵女,
文君因贈白頭吟。
東流不作西歸水,
落花辭條羞故林。
兔絲固無情,
隨風任傾倒。
誰使女蘿枝,
而來強縈抱。
兩草猶一心,
人心不如草。
莫卷龍須席,
從他生網絲。
且留琥珀枕,
或有夢來時。
覆水再收豈滿杯,
棄妾已去難重回。
古來得意不相負,
只今惟見青陵臺。

Bạch đầu ngâm
Cẩm thuỷ đông bắc lưu,
Ba đãng song uyên ương.
Hùng sào Hán cung thụ,
Thư lộng Tần thảo phương.
Ninh đồng vạn tử toái ỷ dực,
Bất nhẫn vân gian lưỡng phân trương.
Thử thì A Kiều chính kiều đố,
Độc toạ Trường Môn sầu nhật mộ.
Đãn nguyện quân ân cố thiếp thâm,
Khởi tích hoàng kim mãi từ phú.
Tương Như tác phú đắc hoàng kim,
Trượng phu hiếu tân đa dị tâm.
Nhất triêu tương sính Mậu Lăng nữ,
Văn Quân nhân tặng “Bạch đầu ngâm”.
Đông lưu bất tác tây quy thuỷ,
Lạc hoa từ điều tu cố lâm.
Thố ty cố vô tình,
Tuỳ phong nhiệm khuynh đảo.
Thuỳ sử nữ la chi,
Nhi lai cưỡng oanh bão.
Lưỡng thảo do nhất tâm,
Nhân tâm bất như thảo.
Mạc quyển long tu tịch,
Tòng tha sinh võng ty.
Thả lưu hổ phách chẩm,
Hoặc hữu mộng lai thì.
Phúc thuỷ tái thu khởi mãn bôi,
Khí thiếp dĩ khứ nan trùng hồi.
Cổ lai đắc ý bất tương phụ,
Chỉ kim duy kiến Thanh Lăng đài.

Dịch nghĩa
Dòng nước như gấm trôi về đông bắc
Trên sóng chấp chới đôi uyên ương
Con trống đậu trên cây ở Hán cung
Con mái đùa trong cỏ thơm đất Tần
Thà cùng nhau chết vạn lần, nát lông cánh
Chứ không chịu chia lìa nhau trong mây
Khi A Kiều trong cơn ghen thủa ấy
Ngồi một mình buồn ngày tàn ở Trường Môn
Chỉ mong ơn vua thương tới nàng hơn
Há tiếc hoàng kim mua từ phú
Tương Như làm phú được hoàng kim
Trượng phu ưa mới sinh lòng khác
Một sớm muốn cưới cô gái Mậu Lăng
Văn Quân nhân tặng “Bạch đầu ngâm”
Nước đã về đông chẳng quay lại hướng tây
Hoa lìa cành thẹn với rừng cũ
Cỏ thố ty vốn vô tình
Theo gió mà ngả nghiêng
Ai xui khiến dây cỏ nữ la
Tìm tới quấn quýt không rời
Hai loài cỏ, chung một tấm lòng
Lòng người sao chẳng như cỏ ấy
Đừng cuốn chiếc chiếu long tu (râu rồng)
Mặc cho tơ nhện chăng đầy
Hãy để lại chiếc gối hổ phách
Biết đâu sẽ có lúc về trong giấc mơ
Nước đổ đi rồi, há thu lại đầy chén sao
Chàng khinh bạc bỏ thiếp đi, khó mà quay lại
Xưa nay khi đắc ý, không ruồng rẫy nhau
Giờ chỉ còn thấy đài Thanh Lăng mà thôi

白鷺鷥
白鷺下秋水,
孤飛如墜霜。
心閑且未去,
獨立沙洲旁。

Bạch lộ tư
Bạch lộ há thu thuỷ,
Cô phi như truỵ sương.
Tâm nhàn thả vị khứ,
Độc lập sa châu bàng.

Dịch nghĩa
Con cò trắng đáp xuống làn nước mùa thu,
Bay một mình như cụm sương rơi.
Với dáng điệu an nhàn nó chưa đi đâu cả,
Nó đứng một mình trên bãi cát bìa cù lao.

白雲歌送劉十六歸山
楚山秦山皆白雲,
白雲處處長隨君。
長隨君,
君入楚山裏,
雲亦隨君渡湘水。
湘水上,
女蘿衣,
白雲堪臥君早歸。

Bạch vân ca tống Lưu thập lục quy sơn
Sở sơn Tần sơn giai bạch vân,
Bạch vân xứ xứ trường tuỳ quân,
Trường tuỳ quân.
Quân nhập Sở sơn lý,
Vân diệc tuỳ quân độ Tương thuỷ.
Tương thuỷ thượng,
Nữ la y,
Bạch vân kham ngoạ quân tảo quy.

Dịch nghĩa
Núi Sở hay núi Tần cũng đều có mây trắng,
Mây trắng ở nơi nào cũng theo ông mãi.
Theo ông mãi,
Nên khi ông vào núi Sở,
Mây vẫn theo ông qua sông Tương.
Trên sông Tương,
Có con quỷ núi,
Mây ráng nằm lại, nên ông sớm quy ẩn.

(Năm 744)

Lưu thập lục thân thế không rõ, có lẽ là một người bạn của tác giả. Bài này làm để tiễn tặng họ Lưu từ kinh đô Trường An về quy ẩn ở một ngọn núi bên bờ sông Tương, tỉnh Hồ Nam.

白微時,募縣小吏入令臥內,嘗驅牛經堂下令妻怒將加詰責白亟以詩謝雲
素面倚欄鉤,
嬌聲出外頭。
若非是織女,
何得問牽牛。

Bạch vi thì mộ huyện tiểu lại nhập lệnh ngoạ nội, thường khu ngưu kinh đường hạ lệnh thê nộ tương gia cật trách, Bạch cức dĩ thi tạ vân
Tố diện ỷ lan câu,
Kiều thanh xuất ngoại đầu.
Nhược phi thị Chức Nữ,
Hà đắc vấn Khiên Ngưu?

Dịch nghĩa
Mặt ngọc tựa lan can
Cất giọng thánh thót ló đầu ra ngoài
Nếu không phải là nàng Chức Nữ
Hà cớ chi hỏi đến chàng Ngưu Lang?

北風行
燭龍棲寒門,
光曜猶旦開。
日月照之何不及此,
惟有北風號怒天上來。
燕山雪花大如席,
片片吹落軒轅臺。
幽州思婦十二月,
停歌罷笑雙蛾摧。
倚門望行人,
念君長城苦寒良可哀。
別時提劍救邊去,
遺此虎紋金鞞革叉。
中有一雙白羽箭,
蜘蛛結網生塵埃。
箭空在,
人今戰死不復回。
不忍見此物,
焚之已成灰。
黃河捧土尚可塞,
北風雨雪恨難裁。

Bắc phong hành
Chúc long thê hàn môn,
Quang diệu do đán khai.
Nhật nguyệt chiếu chi hà bất cập thử,
Duy hữu bắc phong hào nộ thiên thượng lai.
Yên sơn tuyết hoa đại như tịch,
Phiến phiến xuy lạc Hiên Viên đài.
U Châu tư phụ thập nhị nguyệt,
Đình ca bãi tiếu song nga tồi.
Ỷ môn vọng hành nhân,
Niệm quân Trường Thành khổ hàn lương khả ai.
Biệt thời đề kiếm cứu biên khứ,
Di thử hổ văn kim bính cách xoa.
Trung hữu nhất song bạch vũ tiễn,
Tri thù kết võng sinh trần ai.
Tiễn không tại,
Nhân kim chiến tử bất phục hồi.
Bất nhẫn kiến thử vật,
Phần chi dĩ thành khôi.
Hoàng Hà phủng thổ thượng khả tái,
Bắc phong vũ tuyết hận nan tài.

Dịch nghĩa
Đuốc rồng mà đến nhà nghèo
Ánh nắng buổi mai cũng chiếu sáng
Trời trăng soi rọi sao đến chốn này được
Chỉ có gió bấc từ trời cao giận dữ gầm thét
Núi Yên Chi hoa tuyết lớn như những chiếc chiếu (cuốn hết mọi thứ)
Từng mãng từng mãng thổi sập đài Hiên Viên
Tháng 12 người thiếu phụ đất U Châu tư lự
Không còn ca hát cười đùa, đôi mày ngài tiều tuỵ
Tựa cửa trông người đi
Nhớ chàng ở Trường Thành khổ lạnh thật đáng thương
Hồi đó chia tay chàng mang gươm đi cứu nguy biên ải
Để lại túi đựng tên (chĩa ba) vằn da hổ
Trong đó thường có một cặp tên đuôi buộc lông chim trắng
Bây giờ nhện giăng đầy bụi bặm
Cặp tên không còn nữa
Và chinh phu đã chết vì chiến đấu, không trở về
Nàng không cam lòng nhìn những vật ấy
Nên muốn đốt cháy thành tro
Sông Hoàng Hà đất đào đem đi chỗ khác có thể lấp được
Còn gió bấc tuyết mưa đầy hờn oán kia làm sao dập đứt nổi

Bài này viết khoảng năm 752, trong giai đoạn từ quan (745) sống đời phiêu bạt giang hồ cho tới khi vào núi Lư sơn ẩn cư (755). Năm đó, bước chân giang hồ của ông phiêu bạt tới U châu.

悲歌行
悲來乎。
悲來乎。
主人有酒且莫斟。
聽我一曲悲來吟。
悲來不吟還不笑。
天下無人知我心。
君有數斗酒。
我有三尺琴。
琴鳴酒樂兩相得。
一杯不啻千鈞金。
悲來乎。
悲來乎。
天雖長。
地雖久。
金玉滿堂應不守。
富貴百年能几何。
死生一度人皆有。
孤猿坐啼墳上月。
且須一盡杯中酒。
悲來乎。
悲來乎。
鳳凰不至河無圖。
微子去之箕子奴。
漢帝不憶李將軍。
楚王放卻屈大夫。
悲來乎。
悲來乎。
秦家李斯早追悔。
虛名撥向身之外。
范子何曾愛五湖。
功成名遂身自退。
劍是一夫用。
書能知姓名。
惠施不肯干萬乘。
卜式未必窮一經。
還須黑頭取方伯。
莫謾白首為儒生。

Bi ca hành
Bi lai hồ
Bi lai hồ
Chủ nhân hữu tửu thả mạc châm
Thính ngã nhất khúc bi lai ngâm
Bi lai bất ngâm hoàn bất tiếu
Thiên hạ vô nhân tri ngã tâm
Quân hữu sổ đấu tửu
Ngã hữu tam xích cầm
Cầm minh tửu lạc lưỡng tương đắc
Nhất bôi bất thí thiên quân kim
Bi lai hồ
Bi lai hồ
Thiên tuy trường
Địa tuy cửu
Kim ngọc mãn đường ưng bất thủ
Phú quý bách niên năng kỹ hà
Tử niên nhất độ nhân giai hữu
Cô viên tọa đề phần thượng nguyệt
Thả tu nhất tận bôi trung tửu
Bi lai hồ
Bi lai hồ
Phượng hoàng bất chí hà vô đồ
Vi Tử khứ chi Kỳ Tử nô
Hán Đế bất ức Lý Tướng Quân
Sở Vương phóng khước Khuất Đại Phu
Bi lai hồ
Bi lai hồ
Tần gia Lý Tư tảo truy hối
Hư danh bát hướng thân chi ngoại
Phạm tử hà tằng ái ngũ hồ
Danh thành công toại thân tự thoái
Kiếm thị nhất phu dụng
Thư năng tri tánh danh
Huệ thi bất khẳng can vạn thừa
Bốc thức vị tâm cùng nhất kinh
Hoàng tu hắc đầu thủ phương bá
Mạc man bạch thủ vi nho sinh.

別東林寺僧
東林送客處,
月出白猿啼。
笑別盧山遠,
何煩過虎溪。

Biệt Đông Lâm tự tăng
Đông Lâm tống khách xứ,
Nguyệt xuất bạch viên đề.
Tiếu biệt Lư sơn viễn,
Hà phiền quá Hổ khê.

別內赴徵其一
王命三徵去未還,
明朝離別出吳關。
白玉高樓看不見,
相思須上望夫山。

Biệt nội phó trưng kỳ 1
Vương mệnh tam trưng khứ vị hoàn,
Minh triêu ly biệt xuất Ngô quan.
Bạch ngọc cao lâu khan bất kiến,
Tương tư tu thướng Vọng phu san.

Dịch nghĩa
Được lệnh vua viết ba bài thơ từ biệt mà vẫn chưa đi được,
Sáng mai sẽ ra khỏi cửa thành đất Ngô.
Từ lầu cao nhà ta không thấy được kinh thành đâu,
Có nhớ nhau, phải lên hòn Vọng phu để trông.

(Năm 756)

Ba bài này viết vào thời điểm An Lộc Sơn vây hãm hai kinh. Vĩnh vương Lý Lân, con thứ 16 của Huyền Tông, làm Giang Lăng đô đốc, sung tiết độ sứ các đạo Sơn Nam đông lộ, Lĩnh Nam Kiềm Trung và Giang Nam tây lộ. Trọng tài danh của Lý Bạch, Vĩnh vương mời ông tới làm liêu tá trong phủ. Khi Lý Lân làm phản, tự đem thuyền đi xuống phía đông, Lý Bạch cũng bị bức bách đi theo.

別內赴徵其二
出門妻子強牽衣,
問我西行几日歸。
歸時儻佩黃金印,
莫學蘇秦不下機。

Biệt nội phó trưng kỳ 2
Xuất môn thê tử cưỡng khiên y,
Vấn ngã tây hành kỷ nhật quy.
Quy thời thảng bội hoàng kim ấn,
Mạc học Tô Tần bất há ky.

別內赴徵其三
翡翠為樓金作梯,
誰人獨宿倚門啼?
夜坐寒燈連曉月,
行行淚盡楚關西。

Biệt nội phó trưng kỳ 3
Phỉ thuý vi lâu kim tác thê,
Thuỳ nhân độc túc ỷ môn đề?
Dạ toạ hàn đăng liên hiểu nguyệt,
Hàng hàng lệ tận Sở quan tê (tây).

Dịch nghĩa
Vàng chế ra thang, ngọc thuý tạo nên lầu,
Ai người một mình tựa cửa khóc sầu?
Đêm ngồi dưới ngọn đèn lạnh cùng với mảnh trăng sớm,
Hàng hàng dòng lệ rơi ở ải tây thành Sở.

(Năm 756)

平虜將軍妻
平虜將軍婦,
入門二十年。
君心自有悅,
妾寵豈能專。
出解床前帳,
行吟道上篇。
古人不唾井,
莫忘昔纏綿。

Bình lỗ tướng quân thê
Bình lỗ tướng quân thê,
Nhập môn nhị thập niên.
Quân tâm tự hữu duyệt,
Thiếp sủng khởi năng chuyên?
Xuất giải sàng tiền trướng,
Hành ngâm đạo thượng thiên.
Cổ nhân bất thoá tỉnh,
Mạc vong tích triền miên.

Dịch nghĩa
Vợ của bình lỗ tướng quân,
Tới làm dâu đã hai mươi năm.
Nay chàng có niềm vui khác,
Thiếp há còn được yêu mến mãi?
Ra đi tháo bức màn trước giường xuống (xưa mang đến lúc về làm dâu, nay ra đi thì tháo mang đi),
Trên đường ngâm một bài thơ.
Người xưa không nhổ xuống giếng cũ,
Xin chớ quên bao ngày tháng bên nhau.

菩薩蠻
平林漠漠煙如織,
寒山一帶傷心碧。
暝色入高樓,
有人樓上愁。
玉階空佇立,
宿鳥歸飛急。
何處是歸程,
長亭更短亭。

Bồ tát man
Bình lâm mạc mạc yên như chức,
Hàn san nhất đới thương tâm bích.
Minh sắc nhập cao lâu,
Hữu nhân lâu thượng sầu.
Ngọc giai không trữ lập,
Túc điểu quy phi cấp.
Hà xứ thị quy trình,
Trường đình cách đoản đình.

Dịch nghĩa
Cảnh rừng phẳng lặng, khói dày bay lên uốn lượn như dệt,
Núi lạnh một dải xanh biếc nhìn thấy thê lương.
Bóng tối lọt vào lầu cao,
Có người trên lầu đang buồn.
Thềm ngọc đứng mãi một mình,
Chim tối bay về tổ vội vã.
Đường về là nơi nào?
Trường đình lại đến đoản đình.

陪侍郎叔遊洞庭醉後其三
剗却君山好,
平铺湘水流。
巴陵无限洒,
醉杀洞庭秋。

Bồi thị lang thúc du Động Đình tuý hậu kỳ 3
Sản khước Quân sơn hảo,
Bình phô Tương thuỷ lưu.
Ba Lăng vô hạn tửu,
Tuý sát Động Đình thu.

Dịch nghĩa
(Giá như) đem bỏ được núi Quân đi,
Sẽ chỉ còn dòng sông Tương phẳng lặng chảy dài.
Rượu uống trên núi Ba Lăng tha hồ,
Vẻ thu ở hồ Động Đình đẹp mê hồn khiến người say.

Thị lang thúc là người chú tên Diệp, giữ chức Hình bộ thị lang của tác giả. Hồ Động Đình là một thắng cảnh nổi tiếng, nay trong huyện Nhạc Dương tỉnh Hồ Nam.

陪族叔開部侍郎曄及中書賈舍人至遊洞庭其一
洞庭西望楚江分,
水盡南天不見雲。
日落長沙秋色遠,
不知何處弔湘君。

Bồi tộc thúc Hình bộ thị lang Diệp cập trung thư Giả xá nhân Chí du Động Đình kỳ 1
Động Đình tây vọng Sở giang phân,
Thuỷ tận nam thiên bất kiến vân.
Nhật lạc Trường Sa thu sắc viễn,
Bất tri hà xứ điếu Tương quân.

(Năm 759)

陪族叔開部侍郎曄及中書賈舍人至遊洞庭其二
南湖秋水夜無煙,
耐可乘流直上天。
且就洞庭賒月色,
將船買酒白雲邊。

Bồi tộc thúc Hình bộ thị lang Diệp cập trung thư Giả xá nhân Chí du Động Đình kỳ 2
Nam hồ thu thuỷ dạ vô yên,
Nại khả thừa lưu trực thướng thiên.
Thả tựu Động Đình xa nguyệt sắc,
Tương thuyền mãi tửu bạch vân biên.

(Năm 759)

陪族叔開部侍郎曄及中書賈舍人至遊洞庭其三
洛陽才子謫湘川,
元禮同舟月下仙。
記得長安還欲笑,
不知何處是西天。

Bồi tộc thúc Hình bộ thị lang Diệp cập trung thư Giả xá nhân Chí du Động Đình kỳ 3
Lạc Dương tài tử trích tương xuyên,
Nguyên lễ đồng chu nguyệt hạ tiên.
Ký đắc Trường An hoàn dục tiếu,
Bất tri hà xứ thị tây thiên.

(Năm 759)

陪族叔開部侍郎曄及中書賈舍人至遊洞庭其四
洞庭湖西秋月輝,
瀟湘江北早鴻飛。
醉客滿船歌白苧,
不知霜露入秋衣。

Bồi tộc thúc Hình bộ thị lang Diệp cập trung thư Giả xá nhân Chí du Động Đình kỳ 4
Động Đình hồ tây thu nguyệt huy,
Tiêu Tương giang bắc tảo hồng phi.
Tuý khách mãn thuyền ca Bạch trữ,
Bất tri sương lộ nhập thu y.

Dịch nghĩa
Mé tây hồ Động Đình, trăng thu sáng
Phía bắc sông Tiêu, Tương, chim hồng sớm bay về
Đầy thuyền khách say hát bài ca Bạch trữ
Chẳng biết sương móc thấm vào áo mùa thu

(Năm 759)

陪族叔開部侍郎曄及中書賈舍人至遊洞庭其五
帝子瀟湘去不還,
空余秋草洞庭間。
淡掃明湖開玉鏡,
丹青畫出是君山。

Bồi tộc thúc Hình bộ thị lang Diệp cập trung thư Giả xá nhân Chí du Động Đình kỳ 5
Đế tử Tiêu Tương khứ bất hoàn,
Không dư thu thảo Động Đình gian.
Đạm tảo minh hồ khai ngọc kính,
Đan thanh hoạ xuất thị Quân san.

Dịch nghĩa
Con gái vua Nghiêu tới Tiêu Tương rồi không về nữa,
Bỏ lại cỏ thu cho vùng Động Đình bao la này.
Gió thổi quang sương trên mặt hồ sáng như tấm gương ngọc,
Núi Quân đẹp như bức tranh màu sắc xanh đỏ.

(Năm 759)

戰城南
去年戰,桑乾源。
今年戰,蔥河道。
洗兵條支海上波,
放馬天山雪中草。
萬里長征戰,
三軍盡衰老。
匈奴以殺戮為耕作,
古來唯見白骨黃沙田。
秦家築城避胡處,
漢家還有烽火燃。
烽火燃不息,
征戰無已時。
野戰格鬥死,
敗馬號鳴向天悲。
鳥鳶啄人腸,
銜飛上挂枯樹枝。
士卒塗草莽,
將軍空爾為。
乃知兵者是兇器,
聖人不得已而用之。

Chiến thành nam
Khứ niên chiến, Tang Càn nguyên,
Kim niên chiến, Thông Hà đạo.
Tẩy binh Điều Chi hải thượng ba,
Phóng mã Thiên Sơn tuyết trung thảo.
Vạn lý trường chinh chiến,
Tam quân tận suy lão.
Hung Nô dĩ sát lục vi canh tác,
Cổ lai duy kiến bạch cốt hoàng sa điền.
Tần gia trúc thành bị Hồ Xứ,
Hán gia hoàn hữu phong hỏa nhiên.
Phong hỏa nhiên bất tức,
Chinh chiến vô dĩ thì.
Dã chiến cách đấu tử,
Bại mã hào minh hướng thiên bi.
Ô diên trác nhân trường,
Hàm phi thướng quải khô thụ chi.
Sĩ tốt đồ thảo mãng,
Tướng quân không nhĩ vi.
Nãi tri binh giả thị hung khí,
Thánh nhân bất đắc dĩ nhi dụng chi.

Dịch nghĩa
Vừa năm ngoái đánh nhau ở đầu sông Tang Càn
Đến năm nay lại đánh nhau tại miền sông Thông Hà
Dùng sóng biển Điều Chi để rửa giáo gươm
Thả ngựa về núi Thiên Sơn cho ăn cỏ tuyết
Đán nhau dai dẳng bên ngoài muôn dặm
Hết thảy ba quân đều ốm và già yếu
Rợ Hồ thì lấy sự giết chóc thay cho việc cày bừa
Từ xưa chỉ thấy xương trắng trên cánh đồng cát vàng
Nhà Tần xây thành phòng ngự giặc Hồ,
Nhà Hán đốt lửa hiệu còn cháy rực.
Lửa báo động cháy không hề tắt,
Chiến chinh chẳng bao giờ ngừng.
Kẻ tử trận trong cuộc đánh giáp nơi đồng nội
Ngựa thua trận nhìn trời hí vang thảm thiết
Diều quạ mổ ruột người
Ngậm tha bay treo lơ lững trên cây khô
Binh lính chết trên đồng cỏ,
Tướng quân một mình thơ thẩn lơ láo.
Mới biết rằng binh đao là vật gở,
Thánh nhân bất đắc dĩ mới dùng tới.

(Năm 747)

古朗月行
小時不識月,
呼作白玉盤。
又疑瑤臺鏡,
飛在白雲端。
仙人垂兩足,
桂樹作團團。
白兔搗藥成,
問言與誰餐。
蟾蜍蝕圓影,
大明夜已殘。
羿昔落九烏,
天人清且安。
陰精此淪惑,
去去不足觀。
憂來其如何,
淒愴摧心肝。

Cổ lãng nguyệt hành
Tiểu thì bất thức nguyệt,
Hô tác bạch ngọc bàn.
Hựu nghi Dao Đài kính,
Phi tại bạch vân đoan.
Tiên nhân thuỳ lưỡng túc,
Quế thụ tác đoàn đoàn.
Bạch thố đảo dược thành,
Vấn ngôn dữ thuỳ xan.
Thiềm thừ thực viên ảnh,
Đại minh dạ dĩ tàn.
Nghệ tích lạc cửu ô,
Thiên nhân thanh thả an.
Âm tinh thử luân hoặc,
Khứ khứ bất túc quan.
Ưu lai kỳ như hà,
Thê sảng tồi tâm can.

Dịch nghĩa
Thuở nhỏ không biết trăng,
Gọi là mâm ngọc sáng.
Lại ngờ là gương ở Dao Đài,
Bay tít tầng mây trắng.
Người tiên buông đôi chân,
Cây quế tròn xum xuê.
Thỏ trắng giã thuốc đã xong,
Hỏi biết cùng ai mà nếm.
Con cóc gặm ảnh tròn,
Ánh sáng về đêm đã tàn lụi.
Hậu Nghệ xưa bắn rơi chín mặt trời,
Người trời trong sạch và yên ổn.
Vầng trăng của đêm chìm trong thương cảm,
Trôi trôi không nhìn thấy nữa.
Buồn lo đến thế sao,
Xót xa bời bời gan ruột.

古風其二
蟾蜍薄太清,
蝕此瑤臺月。
圓光虧中天,
金魄遂淪沒。
螮蝀入紫微,
大明夷朝暉。
浮雲隔兩曜,
萬象昏陰霏。
蕭蕭長門宮,
昔是今已非。
桂蠹花不實,
天霜下嚴威。
沈嘆終永夕,
感我涕沾衣。

Cổ phong kỳ 02
Thiềm thừ bạc Thái Thanh,
Thực thử Dao Đài nguyệt.
Viên quang khuy trung thiên,
Kim phách toại luân một.
Đế đông nhập Tử Vi,
Đại minh di triêu huy.
Phù vân cách lưỡng diệu,
Vạn tượng hôn âm phi.
Tiêu tiêu Trường Môn cung,
Tích thị kim dĩ phi.
Quế đố hoa bất thực,
Thiên sương hạ nghiêm uy.
Trầm thán chung vĩnh tịch,
Cảm ngã di triêm y.

古風其三
秦皇掃六合,
虎視何雄哉。
揮劍決浮雲,
諸侯盡西來。
明斷自天啟,
大略駕群才。
收兵鑄金人,
函谷正東開。
銘功會稽嶺,
騁望琅琊臺。
刑徒七十萬,
起土驪山隈。
尚采不死葯,
茫然使心哀。
連弩射海魚,
長鯨正崔嵬。
額鼻象五岳,
揚波噴雲雷。
鬈鬣蔽青天,
何由睹蓬萊。
徐市載秦女,
樓船幾時迴。
但見三泉下,
金棺葬寒灰。

Cổ phong kỳ 03
Tần hoàng tảo lục hiệp,
Hổ thị hà hùng tai.
Huy kiếm quyết phù vân,
Chư hầu tận tây lai.
Minh đoạn tự thiên khởi,
Đại lược giá quần tài.
Thu binh chú kim nhân,
Hàm Cốc chính đông khai.
Minh công hội Kê Lĩnh,
Sính vọng Lang Nha đài.
Hình đồ thất thập vạn,
Khởi thổ ly sơn ôi.
Thượng thái bất tử dược,
Mang nhiên sử tâm ai.
Liên nỗ xạ hải ngư,
Trường kình chính thôi ngôi.
Ngạch tỵ tượng Ngũ Nhạc,
Dương ba phún vân lôi.
Quyền liệp tế thanh thiên,
Hà do đổ Bồng Lai.
Từ thị tải Tần nữ,
Lâu thuyền kỷ thì hồi.
Đán kiến Cam Tuyền hạ,
Kim quan táng hàn hôi.

(Năm 751)

古風其八
天津三月時,
千門桃與李。
朝為斷腸花,
暮逐東流水。
前水複後水,
古今相續流。
新人非舊人,
年年橋上遊。
雞鳴海色動,
謁帝羅公侯。
月落西上陽,
餘輝半城樓。
衣冠照雲日,
朝下散皇州。
鞍馬如飛龍,
黃金絡馬頭。
行人皆辟易,
志氣橫嵩丘。
入門上高堂,
列鼎錯珍羞。
香風引趙舞,
清管隨齊謳。
七十紫鴛鴦,
雙雙戲庭幽。
行樂爭晝夜,
自言度千秋。
功成身不退,
自古多愆尤。
黃犬空歎息,
綠珠成釁仇。
何如鴟夷子,
散發棹扁舟。

Cổ phong kỳ 08
Thiên tân tam nguyệt thì,
Thiên môn đào dữ lý.
Triêu vi đoạn trường hoa,
Mộ trục đông lưu thuỷ.
Tiền thuỷ phức hậu thuỷ,
Cổ kim tương tục lưu.
Tân nhân phi cựu nhân,
Niên niên kiều thượng du.
Kê minh hải sắc động,
Yết đế la công hầu.
Nguyệt lạc tây Thượng Dương,
Dư huy bán thành lâu.
Y quan chiếu vân nhật,
Triều hạ tán hoàng châu.
Yên mã như phi long,
Hoàng kim lạc mã đầu.
Hành nhân giai tịch dị,
Chí khí hoành Tung khâu.
Nhập môn thướng cao đường,
Liệt đỉnh thác trân tu.
Hương phong dẫn triệu vũ,
Thanh quản tuỳ Tề âu.
Thất thập tử uyên ương,
Song song hí đình u.
Hành lạc tranh trú dạ,
Tự ngôn độ thiên thu.
Công thành thân bất thoái,
Tự cổ đa khiên vưu.
Hoàng khuyển không thán tức,
Lục Châu thành hấn cừu.
Hà như si di tử,
Tán phát trạo biển chu.

古風其十
齊有倜儻生,
魯連特高妙。
明月出海底,
一朝開光耀。
卻秦振英聲,
後世仰末照。
意輕千金贈,
顧向平原笑。
吾亦澹蕩人,
拂衣可同調。

Cổ phong kỳ 10
Tề hữu thích thảng sinh,
Lỗ Liên đặc cao diệu.
Minh nguyệt xuất hải để,
Nhất triêu khai quang diệu.
Khước Tần chấn anh thanh,
Hậu thế ngưỡng mạt chiếu.
Ý khinh thiên kim tặng,
Cố hướng Bình Nguyên tiếu.
Ngô diệc đạm đãng nhân,
Phất y khả đồng điệu.

Dịch nghĩa
Nước Tề có nhiều người tài ba lỗi lạc,
Trong đó đặc biệt Lỗ Trọng Liên cao minh hơn cả.
Như ngọc dạ quang lấy từ đáy biển,
Một sớm mang lên bờ phát ra ánh sáng.
Lời khước từ đầu hàng vua Tần làm chấn động anh hào,
Đời sau mãi còn ngưỡng mộ.
Không nhận một ngàn lượng vàng tặng,
Cười thản nhiên trước Bình Nguyên Quân.
Ta là kẻ vốn bình dị không ham danh lợi,
Xin rũ áo đứng lên nhận là người đồng điệu.

Thời Chiến Quốc, vua Tần cho quân vây kinh đô Hàm Đan nước Triệu, rồi cho thuyết khách khuyên Triệu đầu hàng. Lỗ Trọng Liên gặp tướng giữ thành bên Triệu là Bình Nguyên Quân khuyên không nên hàng và gay gắt tranh luận với thuyết khách bên Tần. Vừa lúc đó, Tín Lăng Quân nước Nguỵ đem quân đến giải vây, quân Tần phải rút về. Bình Nguyên Quân tặng Liên một ngàn lạng vàng nhưng Liên không nhận.

古風其十一
黃河走東溟。
白日落西海。
逝川與流光。
飄忽不相待。
春容舍我去。
秋髮已衰改。
人生非寒松。
年貌豈長在。
吾當乘雲螭。
吸景駐光綵。

Cổ phong kỳ 11
Hoàng Hà tẩu Đông minh,
Bạch nhật lạc Tây hải
Thệ xuyên dữ lưu quang
Phiêu hốt bất tương đãi
Xuân dung xả ngã khứ
Thu phát dĩ suy cải
Nhân sinh phi hàn tùng
Niên mạo khởi trường tại
Ngô đương thừa vân ly
Hấp ảnh trụ quang thái

Dịch nghĩa
Dòng nước sông Hoàng Hà chạy xuống biển Đông,
Vầng mặt trời trắng rụng xuống biển Tây,
Dòng nước và ánh sáng
Vùn vụt đi không chờ ai cả.
Cái vẻ xuân tươi đã bỏ ta đi mất.
Tóc về thu đã biến đổi màu xưa.
Đời người ta nào phải đâu cây thông
Chịu lạnh sao có thể còn mãi được ?
Ta nên cưỡi rống lên trời,
Hút lấy ánh sáng của Mặt trời, Mặt trăng để giữ lấy cái tươi trẻ lâu dài.

古風其十五
燕昭延郭隗,
遂筑黃金臺。
劇辛方趙至,
鄒衍復齊來。
奈何青雲士,
棄我如塵埃。
珠玉買歌笑,
糟糠養賢才。
方知黃鵠舉,
千里獨徘徊。

Cổ phong kỳ 15
Yên Chiêu diên Quách Ngỗi,
Toại trúc hoàng kim đài.
Kịch Tân phương Triệu chí,
Trâu Diễn phục Tề lai.
Nại hà thanh vân sĩ,
Khí ngã như trần ai.
Châu ngọc mãi ca tiếu,
Tao khang dưỡng hiền tài.
Phương tri “Hoàng hộc cử”,
Thiên lý độc bồi hồi.

Dịch nghĩa
Yên Chiêu Vương mời Quách Ngỗi giúp việc nước,
Nên xây đài bằng vàng.
Được Kịch Tân từ nước Triệu qua,
Và Sô Diễn từ nước Tề tới.
Đường Huyền Tông chỉ dùng bọn tầm thường,
Coi ta như cát bụi.
Tiền bạc chỉ dùng để mua tiếng cười câu hát,
Còn đãi hiền tài rất bần tiện.
Cũng biết đến điển “Hoàng hộc cử”,
Nhưng trước tiền đồ ngàn dặm chẳng biết đi đâu.

古風其十八
孤蘭生幽園,
眾草共蕪沒。
雖照陽春暉,
復悲高秋月。
飛霜早淅瀝,
綠艷恐休歇。
若無清風吹,
香氣為誰發。

Cổ phong kỳ 18
Cô lan sinh u viên,
Chúng thảo cộng vu một.
Tuy chiếu dương xuân huy,
Phục bi cao thu nguyệt.
Phi sương tảo tích lịch,
Lục diễm khủng hưu tiết.
Nhược vô thanh phong xuy,
Hương khí vị thuỳ phát?

古風其十九
西嶽蓮花山,
迢迢見明星。
素手把芙蓉,
虛步躡太清。
霓裳曳廣帶,
飄拂升天行。
邀我登雲臺,
高揖衛叔卿。
恍恍與之去,
駕鴻淩紫冥。
俯視洛陽川,
茫茫走胡兵。
流血塗野草,
豺狼盡冠纓。

Cổ phong kỳ 19
Tây nhạc Liên Hoa sơn,
Điều điều kiến Minh Tinh.
Tố thủ bả phù dung,
Hư bộ nhiếp thái thanh.
Nghê thường duệ quảng đới,
Phiêu phất thăng thiên hành.
Yêu ngã đăng Vân Đài,
Cao ấp vệ Thúc Khanh.
Hoảng hoảng dữ chi khứ,
Giá hồng lăng tử minh.
Phủ thị Lạc Dương xuyên,
Mang mang tẩu Hồ binh.
Lưu huyết đồ dã thảo,
Sài lang tận quan anh.

古風其二十三
秋露白如玉,
團團下庭綠。
我行忽見之,
寒早悲歲促。
人生鳥過目,
胡乃自結束。
景公一何愚,
牛山淚相續。
物苦不知足,
得隴又望蜀。
人心若波瀾,
世路有屈曲。
三萬六千日,
夜夜當秉燭。

Cổ phong kỳ 23
Thu lộ bạch như ngọc,
Đoàn đoàn há đình lục.
Ngã hành hốt kiến chi,
Hàn tảo bi tuế xúc.
Nhân sinh điểu quá mục,
Hồ nãi tự kết thúc.
Cảnh Công nhất hà ngu,
Ngưu sơn lệ tương tục.
Vật khổ bất tri túc,
Đắc Lũng hựu vọng Thục.
Nhân tâm nhược ba lan,
Thế lộ hữu khuất khúc.
Tam vạn lục thiên nhật,
Dạ dạ đương bỉnh chúc.

古風其二十四
大車揚飛塵,
亭午暗阡陌。
中貴多黃金,
連雲開甲宅。
路逢鬥雞者,
冠蓋何輝赫。
鼻息幹虹蜺,
行人皆怵惕。
世無洗耳翁,
誰知堯與蹠。

Cổ phong kỳ 24
Đại xa dương phi trần,
Đình ngọ âm thiên mạch.
Trung quý đa hoàng kim,
Liên vân khai giáp trạch.
Lộ phùng đấu kê giả,
Quan cái hà huy hách.
Tỵ tức cán hồng nghê,
Hành nhân giai truật dịch.
Thế vô tẩy nhĩ ông,
Thuỳ tri Nghiêu dữ Chích?

Dịch nghĩa
Xe lớn chạy làm bụi đường tung bay,
Giữa trưa mà đại lộ cũng u ám.
Bọn hoạn quan chuyên quyền tiền nhiều,
Dinh thự nối liên tiếp cao tới mây.
Trên đường còn gặp “quan gà chọi”,
Ngựa xe mũ mão cũng như ai.
Mũi phổng như thở ra cầu vồng,
Người trên đường ai cũng phải kinh sợ.
Đời bây giờ không còn “ông rửa tai”,
Nên không ai biết là vua Nghiêu hay đạo tặc.

Lý Bạch trong thời gian giữ một chức quan nhỏ ở Trường An (742-744) đã chứng kiến triều chính hủ bại, ông viết bài này rồi từ quan để tiếp tục cuộc sống lãng du.

古風其三十一
鄭客西入關,
行行未能已。
白馬華山君,
相逢平原里。
璧遺鎬池君,
明年祖龍死。
秦人相謂曰,
吾屬可去矣。
一往桃花源,
千春隔流水。

Cổ phong kỳ 31
Trịnh Khách tây nhập quan,
Hành hành vị năng dĩ.
Bạch mã Hoa Sơn quân,
Tương phùng bình nguyên lý.
Bích di Cảo Trì quân,
Minh niên Tổ long tử.
Tần nhân tương vị viết,
Ngô thuộc khả khứ hĩ.
Nhất vãng đào hoa nguyên,
Thiên xuân cách lưu thuỷ.

Dịch nghĩa
Trịnh Khách từ phía tây đi vào cửa ải,
Sau nhiều ngày đi mãi mới tới.
Đạo sĩ Hoa Sơn quân đi ngựa trắng,
Trịnh Khách gặp được nơi đồng bằng.
Trao Hoa Sơn quân miếng ngọc của Cảo Trì quân,
Tiên đoán sang năm Tổ long sẽ chết.
Dân Tần nghe lỏm được lời tiên đoán bàn tán rằng:
Tôi và quyến thuộc phải đi lánh nạn thôi!
Một khi đã vượt suối hoa đào rồi,
Thì ngàn năm sống xa lánh sông hồ.

古風其三十四
羽檄如流星,
虎符合專城。
喧呼救邊急,
群鳥皆夜鳴。
白日曜紫微,
三公運權衡。
天地皆得一,
澹然四海清。
借問此何為,
答言楚徵兵。
渡瀘及五月,
將赴雲南征。
怯卒非戰士,
炎方難遠行。
長號別嚴親,
日月慘光晶。
泣盡繼以血,
心摧兩無聲。
困獸當猛虎,
窮魚餌奔鯨。
千去不一回,
投軀豈全生。
如何舞幹戚,
一使有苗平。

Cổ phong kỳ 34
Vũ hịch như lưu tinh,
Hổ phù hợp chuyên thành.
Huyên hô cứu biên cấp,
Quần điểu giai dạ minh.
Bạch nhật diệu tử vi,
Tam công vận quyền hành.
Thiên địa giai đắc nhất,
Đạm nhiên tứ hải thanh.
Tá vấn thử hà vị,
Đáp ngôn Sở trưng binh.
Độ Lô cập ngũ nguyệt,
Tương phó Vân Nam chinh.
Khiếp tốt phi chiến sĩ,
Viêm phương nan viễn hành.
Trường hiệu biệt nghiêm thân,
Nhật nguyệt thảm quang tinh.
Khấp tận kế dĩ huyết,
Tâm tồi lưỡng vô thanh.
Khốn thú đương mãnh hổ,
Cùng ngư nhị bôn kình.
Thiên khứ bất nhất hồi,
Đầu khu khởi toàn sinh.
Như hà vũ cán thích,
Nhất sử Hữu Miêu bình.

古風其三十九
登高望四海,
天地何漫漫!
霜被群物秋,
風飄大荒寒。
榮華東流水,
萬事皆波瀾。
白日掩徂輝,
浮雲無定端。
梧桐巢燕雀,
樴棘栖鵷鸞。
且復歸去來,
劍歌行路難。

Cổ phong kỳ 39
Đăng cao vọng tứ hải
Thiên địa hà man man
Sương bị vật quần thu
Phong phiêu đại hoang hàn
Vinh hoa đông lưu thuỷ
Vạn sự giai ba lan
Bạch nhật yểm tồ huy
Phù vân vô định đoan.
Ngô đồng sào yến tước
Chỉ cức thê uyên loan
Thả phục qui khứ lai
Kiếm ca hành lộ nan.

(Năm 744)

古風其四十七
桃花開東園,
含笑誇白日。
偶蒙東風榮,
生此豔陽質。
豈無佳人色,
但恐花不實。
宛轉龍火飛,
零落早相失。
詎知南山松,
獨立自蕭飋。

Cổ phong kỳ 47
Đào hoa khai đông viên,
Hàm tiếu khoa bạch nhật.
Ngẫu mông đông phong vinh,
Sinh thử diễm dương chất.
Khởi vô giai nhân sắc,
Đãn khủng hoa bất thực.
Uyển chuyển long hoả phi,
Linh lạc tảo tương thất.
Cự tri nam sơn tùng,
Độc lập tự tiêu sắt.

Dịch nghĩa
Hoa đào nở ở vườn phía đông,
Mỉm cưởi khoe nụ vừa hé trong ánh nắng.
May nhờ được gió xuân,
Nên có sắc đẹp kiều diễm.
Tuy không phải nhan sắc của người đẹp,
Cũng e hoa không sống lâu dài.
Uốn éo bay như rồng lửa,
Tất cả đã sớm theo nhau rơi rụng.
Há không biết có cây thông ở núi nam kia,
Đứng một mình cam chịu cô đơn giá rét.

古意
君為女蘿草,
妾作菟絲花。
輕條不自行,
為逐春風斜。
百丈託遠松,
纏綿成一家。
誰言會面易,
各在青山崖。
女蘿發馨香,
菟絲斷人腸。
枝枝相糾結,
葉葉競飄揚。
生子不知根,
因誰共芬芳。
中巢雙翡翠,
上宿紫鴛鴦。
若識二草心,
海潮易可量。

Cổ ý
Quân vi nữ la thảo,
Thiếp tác thố ti hoa.
Khinh điều bất tự hành,
Vị trục xuân phong tà.
Bách trượng thác viễn tùng,
Triền miên thành nhất gia.
Thuỳ ngôn hội diện dị,
Các tại thanh sơn nha (nhai).
Nữ la phát hinh hương,
Thố ty đoạn nhân trường.
Chi chi tương củ kết,
Diệp diệp cánh phiêu dương.
Sinh tử bất tri căn,
Nhân thuỳ cộng phân phương.
Trung sào song phỉ thuý,
Thượng túc tử uyên ương.
Nhược thức nhị thảo tâm,
Hải triều diệc khả lường.

Dịch nghĩa
Chàng là loài cỏ nữ la
Thiếp là loài hoa thố ti
Cành nhỏ nhắn không thể tự đi
Nghiêng ngả theo gió xuân
Gởi thân nơi cây tùng trăm trượng xa xôi
Lâu ngày thành chung một nhà
Ai bảo gặp nhau đã dễ
Mỗi bên ở một bên sườn núi xanh
Cỏ nữ la toả mùi thơm ngát
Hoa thố ti làm người ta đứt ruột
Cành cành kết lại với nhau chằng chịt
Lá lá phất phơ theo gió
Sinh con chẳng biết đến rễ
Nhờ ai mà cùng thơm
Bên trong là tổ phỉ thuý
Bên trên đôi uyên ương đậu
Ví như biết được tấm lòng của hai loài cỏ ấy
Thì có thể đo được nước triều ở biển.

(Năm 762)

宮中行樂其一
小小生金屋,
盈盈在紫微。
山花插寶髻,
石竹繡羅衣。
每出深宮里,
常隨步輦歸。
只愁歌舞散,
化作彩雲飛。

Cung trung hành lạc kỳ 1
Tiểu tiểu sinh kim ốc,
Doanh doanh tại Tử Vi.
Sơn hoa sáp bảo kết,
Thạch trúc tú la y.
Mỗi xuất thâm cung lý,
Thường tuỳ bộ liễn quy.
Chỉ sầu ca vũ tán,
Hoá tác thái vân phi.

Dịch nghĩa
Nho nhỏ sống ở trong nhà vàng,
Nhởn nhơ vui đùa trong cung vua.
Hoa núi cài lên búi tóc,
Trúc đá thêu trên áo lụa.
Mỗi khi ra khỏi cung cấm,
Thường đi bộ về cùng với xe vua.
Chỉ buồn rằng khi ca múa hết,
Lại hoá thành mây sớm bay đi.

(Năm 743)

Tương truyền Đường Huyền Tông nhân vui đùa trong cung, sai Lý Bạch chế ca từ. Lý Bạch khi đó đang say, xin Huyền Tông không câu nệ chuyện huý kị. Sau khi được chấp thuận, Lý Bạch viết một mạch 10 bài “Cung trung hành lạc” nói về những thú vui ở trong cung, nay chỉ còn lại 8 bài, được chép trong “Nhạc phủ thi tập”.

宮中行樂其二
柳色黃金嫩,
梨花白雪香。
玉樓巢翡翠,
金殿鎖鴛鴦。
選妓隨雕輦,
徵歌出洞房。
宮中誰第一,
飛燕在昭陽。

Cung trung hành lạc kỳ 2
Liễu sắc hoàng kim nộn,
Lê hoa bạch tuyết hương.
Ngọc lâu sào phí thuý,
Kim điện toả uyên ương.
Tuyển kỹ tuỳ điệu liễn,
Trưng ca xuất động phòng.
Cung trung thuỳ đệ nhất?
Phi Yến tại Chiêu Dương.

Dịch nghĩa
Sắc liễu nõn nà như vàng ròng
Hoa lê trắng như tuyết ngát hương thơm
Chim bói cá làm tổ trên lầu ngọc
Điện vàng khoá kín chim uyên ương
Lựa kỹ nữ đi theo xe chạm trổ
Lấy ca nhi ra khỏi phòng riêng
Ai là người đẹp nhất trong cung?
Chính là nàng Phi Yến ở cung Chiêu Dương

(Năm 743)

宮中行樂其三
盧橘為秦樹,
蒲萄出漢宮。
煙花宜落日,
絲管醉春風。
笛奏龍吟水,
蕭鳴鳳下空。
君王多樂事,
還與萬方同。

Cung trung hành lạc kỳ 3
Lô quất vi Tần thụ,
Bồ đào xuất Hán cung.
Yên hoa nghi lạc nhật,
Ty quản tuý xuân phong.
Địch tấu long ngâm thuỷ,
Tiêu minh phụng hạ không.
Quân vương đa lạc sự,
Hoàn dữ vạn phương đồng.

Dịch nghĩa
Lô quất kết quả trên cây điện Tần,
Rượu bồ đào bày tiệc cung nhà Hán.
Khói hoa trong buổi chiều tà,
Đàn ca say ngọn gió xuân.
Tiếng sáo thổi như rồng ngâm nga trong nước,
Tiếng tiêu ngân như phượng hót trên tầng không.
Quân vương có nhiều thú vui,
Mà vẫn cùng với nhân dân vui hoà.

(Năm 743)

宮中行樂其四
玉樹春歸日,
金宮樂事多。
後庭朝未入,
輕輦夜相過。
笑出花間語,
嬌來竹下歌。
莫教明月去,
留著醉嫦蛾。

Cung trung hành lạc kỳ 4
Ngọc thụ xuân quy nhật,
Kim cung lạc sự đa.
Hậu đình triêu vị nhập,
Khinh liễn dạ tương qua.
Tiếu xuất hoa gian ngữ,
Kiều lai trúc hạ ca.
Mạc giao minh nguyệt khứ,
Lưu trước tuý Thường Nga.

Dịch nghĩa
Trên cây ngọc xuân đã về,
Trong cung vàng nhiều tiệc vui.
Tại sân sau, ánh sáng sớm chưa vào tới,
Trên xe vua, đêm đang trôi qua.
Tiếng cười nói vọng ra từ trong khóm hoa,
Dáng tha thướt hát dưới bụi trúc.
Đừng để cho trăng sáng đi mất,
Hãy giữ lại nàng Hằng Nga đang say.

(Năm 743)

宮中行樂其五
繡戶春風暖,
紗窗曙色新。
宮花爭笑日,
池草暗生春。
綠樹聞歌鳥,
青樓見舞人。
昭陽桃李月,
羅綺自相親。

Cung trung hành lạc kỳ 5
Tú hộ xuân phong noãn,
Sa song thự sắc tân.
Cung hoa tranh tiếu nhật,
Trì thảo ám sinh xuân.
Lục thụ văn ca điểu,
Thanh lâu kiến vũ nhân.
Chiêu Dương đào lý nguyệt,
La ỷ tự tương thân.

Dịch nghĩa
Gió xuân ấm áp thoảng bên cửa có rèm thêu
Bình minh chiếu trên màn lụa che cửa sổ
Hoa trong cung đua cười dưới nắng
Cỏ bên bờ ao âm thầm biểu hiện mùa xuân
Có tiếng chim hót trên cây xanh
Còn trên lầu xanh thấp thoáng bóng dáng vũ công
Cung Chiêu Dương đầy trăng, đào, mận…
Tự chung đụng trong lụa là

(Năm 743)

宮中行樂其六
今日明光裏,
還須結伴遊。
春風開紫殿,
天樂下朱樓。
艷舞全知巧,
嬌歌半欲羞。
更憐花月夜,
宮女笑藏鉤。

Cung trung hành lạc kỳ 6
Kim nhật minh quang lý,
Hoàn tu kết bạn du.
Xuân phong khai tử điện,
Thiên nhạc hạ chu lâu.
Diễm vũ toàn tri xảo,
Kiều ca bán dục tu.
Cánh liên hoa nguyệt dạ,
Cung nữ tiếu tàng câu.

Dịch nghĩa
Hôm nay dưới ánh trăng sáng,
Còn đợi gì hãy kết bạn cùng vui.
Ngọn gió xuân mở cửa điện tía,
Nhạc trời xuống nơi lầu đỏ.
Điệu múa tha thướt, ai cũng khéo léo,
Người đẹp hát, nửa dường như xấu hổ.
Càng tiếc cho đêm trăng vui vầy,
Cung nữ cười chơi trò giấu móc câu.

(Năm 743)

宮中行樂其七
寒雪梅中盡,
春風柳上歸。
宮鶯嬌欲醉,
簷燕語還飛。
遲日明歌席,
新花艷舞衣。
晚來移綵杖,
行樂泥光輝。

Cung trung hành lạc kỳ 7
Hàn tuyết mai trung tận,
Xuân phong liễu thượng quy.
Cung oanh kiều dục tuý,
Thiềm yến ngữ hoàn phi.
Trì nhật minh ca tịch,
Tân hoa diễm vũ y.
Vãn lai di thái trượng,
Hành lạc nê quang huy.

Dịch nghĩa
Tuyết lạnh không còn đọng trên cây mai nữa
Gió xuân đã như trở về trên ngọn liễu
Chim oanh trong cung đẹp đến say đắm lòng người
Chim yến vừa bay vừa hót líu lo ngoài thềm
Nắng chiều vương trên bữa tiệc có ca múa
Hoa mới nở cài vào làm thêm đẹp áo vũ công
Xẩm tối dẹp bỏ các nghi trượng lộng lẫy
Vui chơi thoả thích dưới ánh sáng đèn đuốc

(Năm 743)

宮中行樂其八
水綠南薰殿,
花紅北闕樓。
鶯歌聞太液,
鳳吹繞瀛洲。
素女鳴珠佩,
天人弄彩球。
今朝風日好,
宜入未央遊。

Cung trung hành lạc kỳ 8
Thuỷ lục nam huân điện,
Hoa hồng bắc khuyết lâu.
Oanh ca văn Thái dịch,
Phụng xuý nhiễu Doanh châu.
Tố nữ minh châu bội,
Thiên nhân lộng thái cầu.
Kim triêu phong nhật hảo,
Nghi nhập Vị Ương du.

Dịch nghĩa
Nước biếc ở điện phía nam,
Hoa hồng tại cửa lầu bắc.
Tiếng oanh ca ở Thái Dịch cũng nghe thấy,
Phượng hót nhiễu loạn cả Doanh Châu.
Mỹ nữ rung rinh tiếng ngọc bội,
Người trời (chỉ những người thanh tao) đùa giỡn với những quả cầu rực rỡ.
Gió sớm nay mát lành,
Vào cung Vị Ương chơi.

(Năm 743)

久別離
別來幾春未還家,
玉窗五見櫻桃花。
況有錦字書,
開緘使人嗟。
至此腸斷彼心絕,
雲鬟綠鬢罷梳結,
愁如回飆亂白雪。
去年寄書報陽臺,
今年寄書重相催。
東風兮東風,
爲我吹行雲使西來,
待來竟不來,
落花寂寂委蒼苔。

Cửu biệt ly
Biệt lai kỷ xuân vị hoàn gia,
Ngọc song ngũ kiến anh đào hoa.
Huống hữu cẩm tự thư,
Khai giam sử nhân ta.
Chí thử trường đoạn bỉ tâm tuyệt,
Vân hoàn lục mấn bãi sơ kết,
Sầu như hồi phiêu loạn bạch tuyết.
Khứ niên ký thư báo Dương Đài,
Kim niên ký thư trùng tương thôi.
Đông phong hề đông phong
Vị ngã xuy hành vân sử tây lai
Đãi lai cánh bất lai!
Lạc hoa tịch tịch uỷ thương đài.

Dịch nghĩa
Từ chàng ra đi đã mấy xuân không về,
Trước cửa ngọc đã năm lần thấy hoa anh đào nở.
Huống lại có thư chữ gấm,
Mở ra khiến lòng đau xót.
Tới nay ruột đứt, lòng như cắt lìa,
Tóc mây quên bện, tóc mai biếng tết,
Buồn như cơn gió thổi tung tuyết trắng.
Năm trước đã gửi thư nhắn chốn Dương Đài,
Năm nay lại gửi thư giục giã.
Gió đông chừ gió đông!
Hãy vì ta thổi mây bay về tây,
Đợi hoài mà vẫn chưa thấy người về,
Hoa rơi lặng lẽ phủ rêu xanh.

九月十日即事
昨日登高罷,
今朝更舉觴。
菊花何太苦,
遭此兩重陽。

Cửu nguyệt thập nhật tức sự
Tạc nhật đăng cao bãi,
Kim triêu cánh cử thương.
Cúc hoa hà thái khổ,
Tao thử lưỡng trùng dương.

Dịch nghĩa
Hôm qua lên cao uống rượu cúc xong rồi,
Sáng nay còn nâng chén uống nữa.
Sao hoa cúc phải chịu quá khổ thế này,
Như vậy là bị tới hai lần lễ trùng dương.

Ngày 9 tháng 9 là lễ hội Trùng Dương bên Trung Hoa. Trong ngày này, mọi người giắt lá cây thù du trong mình, lên cao, uống rượu cúc với nhau. Họ cho rằng làm như thế để được may mắn. Ngày hôm sau, tức 10 tháng 9, vẫn có nơi còn làm như thế. Tác giả làm bài này tỏ ý mình.

九日龍山飲
九日龍山飲,
黃花笑逐臣。
醉看風落帽,
舞愛月留人。

Cửu nhật Long sơn ẩm
Cửu nhật Long sơn ẩm,
Hoàng hoa tiếu trục thần.
Tuý khan phong lạc mạo,
Vũ ái nguyệt lưu nhân.

Dịch nghĩa
Ngày trùng cửu uống rượu trên núi Rồng,
Hoa vàng cười với kẻ bị ruồng bỏ.
Say nhìn gió thổi rơi nón,
Múa may dưới ánh trăng mời mọc.

(Năm 761)

夜泊牛渚懷古
牛渚西江夜,
青天無片雲。
登舟望秋月,
空憶謝將軍。
余亦能高詠,
斯人不可聞。
明朝挂帆席,
楓葉落紛紛。

Dạ bạc Ngưu Chử hoài cổ
Ngưu Chử tây giang dạ,
Thanh thiên vô phiến vân.
Đăng chu vọng thu nguyệt,
Không ức Tạ tướng quân.
Dư diệc năng cao vịnh,
Tư nhân bất khả văn.
Minh triều quải phàm khứ,
Phong diệp lạc phân phân.

Dịch nghĩa
Đêm ở Ngưu Chử, mé tây sông Trường Giang
Thời xanh không một áng mây
Lên thuyền ngắm trăng thu
Không tưởng đến Tạ tướng quân
Tôi cũng hay cao giọng ngâm thơ
Mà (chờ) không biết có người nào nghe được không
Sáng mai buồm kéo lên lại đi
Lá phong rơi rụng lả tả

(Năm 739)

夜下征虜亭
船下廣陵去,
月明征虜亭。
山花如繡頰,
江火似流螢。

Dạ há Chinh Lỗ đình
Thuyền há Quảng Lăng khứ,
Nguyệt minh Chinh Lỗ đình.
Sơn hoa như tú giáp,
Giang hoả tự lưu huỳnh.

Dịch nghĩa
Thuyền xuôi xuống Quảng Lăng,
Trăng sáng chiếu trên đình Chinh Lỗ.
Hoa rừng như những đôi má đủ màu sắc,
Lửa chài trên sông như những con đom đóm đang di chuyển.

Chinh Lỗ đình là ngôi đình trên đảo Thạch Đầu ở Quảng Lăng, do Chinh Lỗ tướng quân dựng nên, trong đó trưng rất nhiều tranh vẽ sơn hà cẩm tú để biểu hiện lòng yêu nước của ông.

夜宿山寺
危樓高百尺,
手可摘星辰。
不敢高聲語,
恐驚天上人。

Dạ túc sơn tự
Nguy lâu cao bách xích,
Thủ khả trích tinh thần.
Bất cảm cao thanh ngữ,
Khủng kinh thiên thượng nhân.

Dịch nghĩa
Lầu cao vòi vọi trăm thước,
Tay có thể hái được trăng sao tinh tú.
Không dám nói lớn tiếng,
Sợ làm kinh động đến người trên trời.

游泰山其一
四月上泰山,
石平禦道開。
六龍過萬壑,
澗穀隨縈回。
馬跡繞碧峰,
於今滿青苔。
飛流灑絕巘,
水急松聲哀。
北眺崿嶂奇,
傾崖曏東摧。
洞門閉石扇,
地底興雲雷。
登高望蓬瀛,
想象金銀台。
天門一長嘯,
萬里清風來。
玉女四五人,
飄搖下九垓。
含笑引素手,
遺我流霞杯。
稽首再拜之,
自愧非仙才。
曠然小宇宙,
棄世何悠哉!

Du Thái sơn kỳ 1
Tứ nguyệt thướng Thái sơn,
Thạch bình ngự đạo khai.
Lục long quá vạn hác,
Giản cốc tuỳ oanh hồi.
Mã tích nhiễu bích phong,
Ư kim mãn thanh đài.
Phi lưu sái tuyệt nghiễn,
Thuỷ cấp tùng thanh ai.
Bắc diểu ngạc chướng kỳ,
Khuynh nhai hướng đông tồi.
Động môn bế thạch phiến,
Địa để hung vân lôi.
Đăng cao vọng Bồng Doanh,
Tưởng tượng kim ngân đài.
Thiên môn nhất trường khiếu,
Vạn lý thanh phong lai.
Ngọc nữ tứ ngũ nhân,
Phiêu diêu há cửu giai.
Hàm tiếu dẫn tố thủ,
Di ngã lưu hà bôi.
Khể thủ tái bái chi,
Tự quý phi tiên tài.
Khoáng nhiên tiểu vũ trụ,
Khí thế hà du tai!

Dịch nghĩa
Tháng tư lên núi Thái chơi,
Đường vua đi lên được làm bằng phẳng trên sườn núi đá.
Đoàn xa giá sáu chiếc đi qua hàng vạn hang hốc,
Khe suối rồi vòng trở lại.
Vết vó ngựa để lại trên núi biếc,
Đến nay còn rõ trên rêu xanh.
Nước suối từ đỉnh cao chót vót chảy như bay xuống,
Dòng chảy gấp, tiếng thông reo ai oán.
Mạn bắc nhiều núi có hình dáng kỳ lạ,
Sườn núi phía đông nghiêng nhiều nên có sụt lở.
Phiến đá hình quạt che cửa động,
Phía dưới đất bằng có mây và sấm động.
Lên cao nhìn về phương trời có cõi Bồng Lai và Doanh Châu,
Tưởng tượng như đã đến Đài kim ngân.
Hô một tiếng dài ở cổng trời,
lập tức có gió mát từ vạn dặm thổi tới.
Bốn năm tiên nữ,
Khoan thai bước xuống thềm chín bậc.
Cười mỉm đưa cánh tay trắng nõn,
Trao cho ta chén rượu lưu hà.
Ta rập đầu bái tạ,
Tự hổ thẹn tu chưa thành tiên.
Ở nơi vũ trụ thu nhỏ bao la này,
Đã bỏ hết sự đời ôi còn lo lắng nỗi gì.

遊泰山其三
平明登日觀,
舉手開雲關。
精神四飛揚,
如出天地間。
黃河從西來,
窈窕入遠山。
憑崖覽八極,
目盡長空閒。
偶然值青童,
綠髮雙雲鬟。
笑我晚學仙,
蹉跎凋朱顏。
躊躇忽不見,
浩蕩難追攀。

Du Thái sơn kỳ 3
Bình minh đăng Nhật Quan,
Cử thủ khai vân quan.
Tinh thần tứ phi dương,
Như xuất thiên địa gian.
Hoàng hà tòng tây lai,
Yểu điệu nhập viễn san.
Bằng nhai lãm bát cực,
Mục tận trường không nhàn.
Ngẫu nhiên trị thanh đồng,
Lục phát song vân hoàn.
Tiếu ngã vãn học tiên,
Sa đà điêu chu nhan.
Trù trừ hốt bất kiến,
Hạo đãng nan truy phan.

Dịch nghĩa
Buổi sáng leo lên ngọn Nhật Quan,
Thấy như đưa tay mở cửa mây.
Tinh thần bay đi khắp bốn hướng,
Như đã ra khỏi cõi trần gian.
Thấy Hoàng Hà từ phía tây chảy tới,
Khoan thai nhập vào dãy núi xa xa.
Dựa vào vách đá ngắm tám phía,
An nhàn giương to mắt nhìn không gian rộng lớn.
Tình cờ thấy có tiên đồng đi tới,
Hai bím tóc xanh như mây.
Chê cười ta học tiên trễ quá,
Lần lữa hoài nên mặt hồng tàn phai rồi.
Đang trù trừ chưa nói gì thì bỗng không thấy gì nữa,
Trong cõi bao la này khó mà theo đuổi.

Thái sơn là một trong năm ngọn nổi tiếng của dãy núi Thái Hàng nay trong địa phận ba tỉnh Sơn Tây, Hà Nam, Hà Bắc. Thái sơn nằm phía đông, phía tây là Hoa sơn, nam là Hành sơn, bắc là Hằng sơn và Tung sơn ở giữa.

與元丹丘方城寺談玄作
茫茫大夢中,
惟我獨先覺。
騰轉風火來,
假合作容貌。
滅除昏疑盡,
領略入精要。
澄慮觀此身,
因得通寂照。
郎悟前後際,
始知金仙妙。
幸逢禪居人,
酌玉坐相召。
彼我俱若喪,
雲山豈殊調。
清風生虛空,
明月見談笑。
怡然青蓮宮,
永願恣遊眺。

Dữ Nguyên Đan Khâu Phương Thành tự đàm huyền tác
Mang mang đại mộng trung,
Duy ngã độc tiên giác.
Đằng chuyển phong hoả lai,
Giả hợp tác dung mạo.
Diệt trừ hôn nghi tận,
Lĩnh lược nhập tinh yếu.
Trừng lự quan thử thân,
Nhân đắc thông tịch chiếu.
Lang ngộ tiền hậu tế,
Thuỷ tri kim tiên diệu.
Hạnh phùng thiền cư nhân,
Chước ngọc toạ tương triệu.
Bỉ ngã câu nhược tang,
Vân sơn khởi thù điệu.
Thanh phong sinh hư không,
Minh nguyệt kiến đàm tiếu.
Di nhiên thanh liên cung,
Vĩnh nguyện tứ du thiếu.

與史郎中欽聽黃鶴樓上吹笛
一為遷客去長沙,
西望長安不見家。
黃鶴樓中吹玉笛,
江城五月落梅花。

Dữ Sử lang trung khâm thính Hoàng Hạc lâu thượng xuy địch
Nhất vi thiên khách khứ Trường Sa,
Tây vọng Trường An bất kiến gia.
Hoàng Hạc lâu trung xuy ngọc địch,
Giang Thành ngũ nguyệt “Lạc mai hoa”.

Dịch nghĩa
Một lần làm khách đi đày đến Trường Sa
Nhìn về phía tây thành Trường An chẳng thấy nhà
Trong lầu Hoàng Hạc nghe tiếng sáo ngọc
Thành Giang Hạ tháng năm nghe khúc “Lạc mai hoa”.

(Năm 759)

Dương bạn nhi 楊叛兒 • Dương bạn nhi

楊叛兒
君歌楊叛兒,
妾勸新豐酒。
何許最關人,
烏啼白門柳。
烏啼隱楊花,
君醉留妾家。
博山爐中沉香火,
雙煙一氣淩紫霞。

Dương bạn nhi
Quân ca “Dương bạn nhi”,
Thiếp khuyến Tần Phong tửu.
Hà hứa tối quan nhân,
Ðiểu đề Bạch môn liễu.
Ðiểu đề Ẩn Dương hoa,
Quân tuý lưu thiếp gia.
Bác Sơn lư trung trầm hương hoả,
Song yên nhất khí lăng tử hà.

Dịch nghĩa
Chàng hát bài “Dương bạn nhi”
Thiếp mời rượu Tần Phong
Hai người thật thắm thiết
Chim hót trong liễu cửa Bạch
Chim hót trong hoa ở Ẩn Dương
Chàng say lưu lại nhà thiếp
Trong lò Bác Sơn, lửa trầm hương
Hai làn khói chung một khí bay lên vượt qua ráng tía.

(Năm 725)

“Dương bạn nhi” nguyên là một bài đồng dao thời Bắc Tề, sau trở thành một đề tài trong nhạc phủ. Bài thơ này của Lý Bạch với bài đồng dao “Dương bạn nhi” không liên quan, nhưng lại liên quan mật thiết với “Dương bạn nhi” trong nhạc phủ.

代贈遠
妾本洛陽人,
狂夫幽燕客。
渴飲易水波,
由來多感激。
胡馬西北馳,
香鬃搖綠絲。
鳴鞭從此去,
逐虜蕩邊陲。
昔去有好言,
不言久離別。
燕支多美女,
走馬輕風雪。
見此不記人,
恩情雲雨絕。
啼流玉箸盡,
坐恨金閨切。
織錦作短書,
腸隨回文結。
相思欲有寄,
恐君不見察。
焚之揚其灰,
手跡自此滅。

Đại tặng viễn
Thiếp bản Lạc Dương nhân,
Cuồng phu U Yên khách.
Khát ẩm Dịch thuỷ ba,
Do lai đa cảm kích.
Hồ mã tây bắc trì,
Hương tung dao lục ti.
Minh tiên tòng thử khứ,
Trục Lỗ đãng biên thuỳ.
Tích khứ hữu hảo ngôn,
Bất ngôn cửu ly biệt.
Yên Chi đa mỹ nữ,
Tẩu mã khinh phong tuyết.
Kiến thử bất ký nhân,
Ân tình vân vũ tuyệt.
Đề lưu ngọc trợ tận,
Toạ hận kim khuê thiết.
Chức cẩm tác đoản thư,
Trường tuỳ hồi văn kết.
Tương tư dục hữu ký,
Khủng quân bất kiến sát.
Phần chi dương kỳ khôi,
Thủ tích tự thử diệt.

搗衣篇
閨里佳人年十余,
顰蛾對影恨離居。
忽逢江上春歸燕,
銜得雲中尺素書。
玉手開緘長嘆息,
狂夫猶戍交河北。
萬里交河水北流,
愿為雙燕泛中洲。
君邊雲擁青絲騎,
妾處苔生紅粉樓。
樓上春風日將歇,
誰能攬鏡看愁發。
曉吹員管隨落花,
夜搗戎衣向明月。
明月高高刻漏長,
真珠帘箔掩蘭堂。
橫垂寶幄同心結,
半拂瓊筵蘇合香。
瓊筵寶幄連枝錦,
燈燭熒熒照孤寢。
有便憑將金剪刀,
為君留下相思枕。
摘盡庭蘭不見君,
紅巾拭淚生氤氳。
明年若更征邊塞,
愿作陽臺一斷雲。

Đảo y thiên
Khuê lý giai nhân niên thập dư
Tần nga đối ảnh hận ly cư
Hốt phùng giang thượng xuân qui yến
Hàm đắc vân trung xích tố thư
Ngọc thủ khai giam trường thán tức:
Cuồng phu do thú Giao Hà bắc!
Vạn lý Giao Hà thuỷ bắc lưu
Nguyện vi song điểu phiếm trung châu
Quân biên vân ủng thanh ty kỵ
Thiếp xứ đài sinh hồng phấn lâu
Lâu thượng xuân phong nhật tương yết
Thuỳ năng lãm kính khan sầu phát?
Hiểu xuy huân quản tuỳ lạc hoa
Dạ đảo nhung y hướng minh nguyệt
Minh nguyệt cao cao khắc lậu trường
Trân châu liêm bạc yểm lan đường
Hoành thuỳ bảo ác đồng tâm kết
Bán phất quỳnh diên tô hợp hương
Quỳnh diên, bảo ác liên chi cẩm
Đăng chúc huỳnh huỳnh chiếu cô tẩm
Hữu sứ bằng tương kim tiễn đao
Vị quân lưu hạ tương tư chẩm
Trích tận đình lan bất kiến quân
Hồng cân thức lệ sinh nhân uân
Minh niên nhược cánh chinh biên tái
Nguyện tác Dương Đài nhất đoạn vân.

Dịch nghĩa
Người đẹp ở phòng khuê đã hơn mười năm
Đổi bóng chau mày giận phải sống một mình
Bỗng gặp én xuân bay về trên sông
Trong mây ngậm bức thư trên lụa trắng
Tay ngọc mở phong thư, miệng thở dài
Anh chồng cuồng còn đi thú ở phía bắc sông Giao
Muôn dặm sông Giao nước chảy về phương Bắc
Nguyện làm đôi chim, cùng bay quanh bãi giữa sông
Bên mình chàng, mây bao phủ, ngựa rủ tơ xanh
Nơi thiếp ở, rêu mọc trên lầu son phấn
Gió xuân thổi trên lầu, ngày đà sắp hết
Ai lòng nào cầm gương, nhìn mái tóc sầu thương
Sớm thổi sáo trúc theo cánh hoa rơi
Đê, giặt áo binh nhung, ngẩng nhìn trăng sáng
Trăng sáng cao vời, giọt đồng hồ kéo dài
Bức rèm trân châu rủ che kín nhà lan
Rủ ngang màn báu kết giải đồng tâm
Pháng phất trên nửa chiếu quỳnh ngát hương tô hợp
Chiếu ngọc màn báu gấm thêu đôi cánh liền nhau
Đèn nến sáng ngời chiếu chỗ nằm trơ trọi
Nếu có người nhắn tin, thiếp sẽ lấy kéo vàng
Vì chàng may để lại chiếc gối tương tư
Hái hết hoa lan trong sân mà chưa thấy chàng
Khăn hồng lau lệ những hoa mờ đôi mắt
Năm sau nếu chàng vẫn lại đi nơi biên tái
Thiếp nguyện làm một đoá mây trôi ở trốn Dương Đài.

Trên đây chúng tôi đã chia sẻ đến quý độc giả những trang thơ giá trị của nhà thơ Lý Bạch. Với ngòi bút tinh tế và đặc sắc những thi phẩm của ông luôn để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng bạn đọc. Cảm ơn đã theo dõi bài viết này của chúng tôi nhé! 

Related posts

Nguyễn Du với tập thơ Bắc hành tạp lục 北行雜錄 P1

admin

Nguyễn Quang Thiều Cùng Những Trang Thơ Đặc Sắc Phần 2

admin

Nhà thơ Thái Bá Tân và tuyển tập thơ dịch Eduardas Mieželaitis phần đầu

admin

Leave a Comment