Nhà Thơ Nổi Tiếng

Nam Trân cùng tập thơ dịch Hồ Chí Minh được yêu thích nhất phần 4

Nam Trân là người dịch thơ Ðường xuất sắc. Ông là người có công lớn trong việc xuất bản Nhật Ký Trong Tù và hai tập Thơ Ðường ở Việt Nam. Những tác phẩm này có độ chuẩn cao về nhiều phương diện, được coi là loại sách gốc. Với sự hiểu biết về ngôn ngữ của mình mà ông đã thành công trong việc gây ấn tượng mạnh đối với bạn đọc. Chúng ta ngay bây giờ hãy cùng nhau điểm danh những thi phẩm xuất sắc của ông nha!

Nội Dung

同舟共濟義難辭,
替友編修報告書。
奉此等因今始學,
多多博得感恩詞。

Thế nạn hữu mẫn tả báo cáo

Đồng chu cộng tế nghĩa nan từ,
Thế hữu biên tu báo cáo thư.
“Phụng thử”, “đẳng nhân” kim thuỷ học,
Đa đa bác đắc cảm ân từ.

Dịch nghĩa

Cùng hội cùng thuyền giúp nhau, lẽ khôn từ chối,
Viết báo cáo thay cho bạn;
Những chữ “thừa lệnh”, “chiểu theo” nay đều mới học,
Thế mà đã được nhiều lời cảm tạ.

Dịch

Cùng hội cùng thuyền nên phải giúp,
Viết thay báo cáo dám từ nan;
“Chiểu theo”, “thừa lệnh” nay vừa học,
Đã được bao lời bạn cảm ơn.

你只平常一隻雞,
朝朝報曉大聲啼。
一聲喚醒群黎夢,
你的功勞也不低。

Thính kê minh

Nhĩ chỉ bình thường nhất chích kê,
Triêu triêu báo hiểu đại thanh đề.
Nhất thanh hoán tỉnh quần lê mộng,
Nhĩ đích công lao dã bất đê.

Dịch nghĩa

Ngươi chỉ là một chú gà bình thường,
Mỗi sớm, lớn tiếng gáy để báo sáng;
Một tiếng thôi mà gọi tỉnh giấc mộng của dân chúng,
Công lao ngươi chẳng phải là xoàng.

Dịch

Ngươi chỉ một chú gà thường,
Báo sáng, ngày ngày tiếng gáy vang;
Một tiếng, toàn dân bừng tỉnh mộng,
Công ngươi đâu có phải là xoàng.

門前衛士執槍立,
天上殘雲傍月飛。
木虱縱橫如坦克,
蚊虫聚散似飛機。
心懷故國千塘路,
梦繞新愁萬縷絲。
無罪而囚已一載,
老夫和淚寫囚詩。

Thu dạ (I)

Môn tiền vệ sĩ chấp thương lập,
Thiên thượng tàn vân bạng nguyệt phi;
Mộc sắt tung hoành như thản khắc,
Mân trùng tụ tán tự phi ky;
Tâm hoài cố quốc thiên đường lộ,
Mộng nhiễu tân sầu, vạn lũ ti;
Vô tội nhi tù dĩ nhất tải,
Lão phu hòa lệ tả tù thi.

Dịch nghĩa

Trước cửa lính gác bồng súng đứng,
Trên trời đám mây tàn bay bên vầng trăng;
Lũ rệp bò ngổn ngang như xe tăng,
Đàn muỗi lúc tụ lúc tán như máy bay;
Lòng nhớ cố quốc cách xa nghìn trùng,
Giấc mộng vấn vương mối sầu mới như vạn mối tơ;
Vô tội mà ở tù đã một năm nay,
Già này hoà nước mắt viết thơ tù.

Dịch

Trước cửa lính canh bồng súng đứng,
Trên trời trăng lướt giữa làn mây;
Rệp bò ngang dọc như thiết giáp,
Muỗi lượn hung hăng tựa máy bay;
Nghìn dặm bâng khuâng hồn nước cũ,
Muôn tơ vương vấn mộng sầu nay;
Ở tù năm trọn thân vô tội,
Hòa lệ thành thơ tả nỗi này.

一更二更又三更,
輾轉徘徊睡不成。
四五更時才合眼,
夢魂環繞五尖星。

Thuỵ bất trước

Nhất canh… nhị canh… hựu tam canh,
Triển chuyển, bồi hồi, thuỵ bất thành;
Tứ, ngũ canh thì tài hợp nhãn,
Mộng hồn hoàn nhiễu ngũ tiêm tinh.

Dịch nghĩa

Canh một… canh hai… lại canh ba,
Trằn trọc băn khoăn không ngủ được;
Canh tư, canh năm vừa chợp mắt,
Hồn mộng đã quẩn quanh nơi ngôi sao năm cánh.

Dịch

Một canh… hai canh… lại ba canh,
Trằn trọc băn khoăn, giấc chẳng thành;
Canh bốn, canh năm vừa chợp mắt,
Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh.

蒼天有意挫英雄,
八月消磨梏桎中。
尺壁寸陰真可惜,
不知向口出牢籠。

Tích quang âm

Thương thiên hữu ý tỏa anh hùng,
Bát nguyệt tiêu ma cốc trất trung;
Xích bích thốn âm chân khả tích,
Bất tri hà nhật xuất lao lung.

Dịch nghĩa

Trời xanh cố ý hãm anh hùng
Tám tháng đã mòn mỏi trong chốn gông cùm;
Tấc bóng nghìn vàng, thật đáng tiếc,
Chẳng biết ngày nào thoát khỏi vòng lao tù?

Dịch

Trời xanh cố ý hãm anh hùng,
Cùm xích tiêu ma tám tháng ròng;
Tấc bóng nghìn vàng, đau xót thực,
Bao giờ thoát khỏi chốn lao lung ?

事物循環原有定,
雨天之後必晴天。
片時宇宙解淋服,
萬里山河晒錦氈。
日暖風清花帶笑,
樹高枝潤鳥爭言。
人和萬物都興奮,
苦盡甘來理自然。

Tình thiên

Sự vật tuần hoàn nguyên hữu định,
Vũ thiên chi hậu tất tình thiên;
Phiến thì vũ trụ giải lâm phục,
Vạn lý sơn hà sái cẩm chiên;
Nhật noãn phong thanh hoa đới tiếu,
Thụ cao chi nhuận điểu tranh nghiên;
Nhân hoà vạn vật đồ hưng phấn,
Khổ tận cam lai, lý tự nhiên.

Dịch nghĩa

Sự vật vần xoay vốn định sẵn,
Sau ngày mưa tất đến ngày nắng;
Trong chốc lát, vũ trụ đã cởi bộ áo ướt,
Muôn dặm non sông phơi màu chăn gấm;
Trời ấm, gió nhẹ, hoa chúm chím cười,
Cây cao, cành mượt, chim đua hót;
Người cùng muôn vật đều phấn chấn,
Hết khổ đến sướng là lẽ tự nhiên.

Dịch

Sự vật vần xoay đà định sẵn,
Hết mưa là nắng hửng lên thôi;
Đất trời một thoáng thu màn ướt,
Sông núi muôn trùng trải gấm phơi;
Trời ấm, hoa cười chào gió nhẹ,
Cây cao, chim hót rộn cành tươi;
Người cùng vạn vật đều phơi phới,
Hết khổ là vui vốn lẽ đời.

一年只見兵和警,
今日看見儒雅人。
雅人使我心興奮,
我髮黑反兩三分。

Trần khoa viên lai thám

Nhất niên chỉ kiến binh hòa cảnh,
Kim nhật khan kiến nho nhã nhân;
Nhã nhân sử ngã tâm hưng phấn,
Ngã phát hắc phản lưỡng tam phân.

Dịch nghĩa

Quanh năm chỉ thấy lính và cảnh sát,
Hôm nay mới nhìn thấy người nho nhã;
Người nho nhã khiến lòng ta phấn chấn,
Tóc ta đen trở lại hai ba phần.

Dịch

Lính tráng tuần canh nhìn nhẵn mặt,
Hôm nay mới được gặp văn nhân;
Người trông nho nhã, ai không thích,
Mái tóc ta xanh lại mấy phần.

太陽每早從山上,
照得全山處處紅。
只為籠前有黑影,
太陽未照到籠中。

Triêu cảnh

Thái dương mỗi tảo tòng sơn thượng,
Chiếu đắc toàn sơn xứ xứ hồng.
Chỉ vị lung tiền hữu hắc ảnh,
Thái dương vị chiếu đáo lung trung.

Dịch nghĩa

Mỗi buổi sớm, mặt trời nhô lên từ đỉnh núi
Chiếu khắp núi, nơi nào cũng đỏ rực
Chỉ vì trước nhà tù có bóng đen
Mặt trời chưa rọi được vào trong ngục

Dịch

Đầu non sớm sớm vầng dương mọc
Khắp núi nơi nơi rực ánh hồng
Chỉ bởi trước lao còn bóng tối
Mặt trời chưa rọi thấu vào trong

郎君一去不回頭,
使妾閨中獨抱愁。
當局可憐余寂寞,
請余來暫住牢囚。

Trưng binh gia quyến

Lang quân nhất khứ bất hồi đầu
Sử thiếp khuê trung độc bão sầu
Đương cục khả liên dư tịch mịch
Thỉnh dư lai tạm trú lao tù.

Dịch nghĩa

Chàng ra đi không trở về,
Để thiếp chốn buồng the một mình ôm sầu;
Nhà đương cục ý hẳn thương thiếp cô quạnh,
Nên mời thiếp đến ở tạm nhà tù.

Dịch

Biền biệt anh đi không trở lại,
Buồng the trơ trọi, thiếp ôm sầu;
Quan trên xót nỗi em cô quạnh,
Nên lại mời em tạm ở tù.

一日囚千秋在外,
古人之話不差訛。
四月非人類生活,
使余憔悴十年多。
囚為
四月吃不飽,
四月睡不好。
四月不換衣,
四月不洗澡。
所以
落了一隻牙,
髮白了許多。
黑瘦像餓鬼,
全身是癩痧。
幸而
持久和忍耐,
不肯退一分。
物質雖痛苦,
不動搖精神。

Tứ cá nguyệt liễu

“Nhất nhật tù, thiên thu tại ngoại”,
Cổ nhân chi thoại bất sai ngoa!
Tứ nguyệt phi nhân loại sinh hoạt,
Sử dư tiều tuỵ thập niên đa.
Nhân vị:
Tứ nguyệt ngật bất bão,
Tứ nguyệt thuỵ bất hảo,
Tứ nguyệt bất hoán y,
Tứ nguyệt bất tẩy tảo.
Sở dĩ:
Lạc liễu nhất chích nha,
Phát bạch liễu hứa đa,
Hắc sấu tượng ngã quỷ,
Toàn thân thị lại sa.
Hạnh nhi:
Trì cửu hoà nhẫn nại,
Bất khẳng thoái nhất phân,
Vật chất tuy thống khổ,
Bất động dao tinh thần.

Dịch nghĩa

“Một ngày tù nghìn thu ở ngoài”,
Lời nói người xưa thực không sai;
Sống chẳng ra người vừa bốn tháng,
Khiến mình tiều tuỵ còn hơn mười năm.
Bởi vì:
Bốn tháng ăn không no,
Bốn tháng ngủ không yên,
Bốn tháng không thay áo,
Bốn tháng không tắm rửa.
Cho nên:
Rụng mất một chiếc răng,
Tóc bạc đi nhiều,
Gầy đen như quỷ đói,
Ghẻ lở khắp thân mình,
May sao:
Kiên trì và nhẫn nại,
Không chịu lùi một phân,
Vật chất tuy đau khổ,
Không nao núng tinh thần.

Dịch

“Một ngày tù, nghìn thu ở ngoài”,
Lời nói người xưa đâu có sai;
Sống khác loài người vừa bốn tháng,
Tiều tuỵ còn hơn mười năm trời.
Bởi vì:
Bốn tháng cơm không no,
Bốn tháng đêm thiếu ngủ,
Bốn tháng áo không thay,
Bốn tháng không giặt giũ.
Cho nên:
Răng rụng mất một chiếc,
Tóc bạc thêm mấy phần,
Gầy đen như quỷ đói,
Ghẻ lở mọc đầy thân.
May mà:
Kiên trì và nhẫn nại,
Không chịu lùi một phân,
Vật chất tuy đau khổ,
Không nao núng tinh thần.

没有冬寒憔悴景,
將無春暖的輝煌。
災殃把我來鍛鍊,
使我精神更健強。

Tự miễn

Một hữu đông hàn tiều tuỵ cảnh,
Tương vô xuân noãn đích huy hoàng.
Tai ương bả ngã lai đoàn luyện,
Sử ngã tinh thần cách kiện cường.

Dịch nghĩa

Không có cảnh mùa đông tiêu điều rét mướt,
Sẽ không có mùa xuân ấm áp huy hoàng;
Tai ương rèn luyện ta,
Khiến cho tinh thần ta càng thêm hăng hái.

Dịch

Ví không có cảnh đông tàn,
Thì đâu có cảnh huy hoàng ngày xuân;
Nghĩ mình trong bước gian truân,
Tai ương rèn luyện tinh thần thêm hăng.

樹梢巧畫張飛像,
赤日長明關羽心。
祖國終年無信息,
故鄉每日望回音。

Tức cảnh

Thụ sao xảo họa Trương Phi tượng,
Xích nhật trường minh Quan Vũ tâm;
Tổ quốc chung niên vô tín tức,
Cố hương mỗi nhật vọng hồi âm.

Dịch nghĩa

Ngọn cây khéo vẽ hình Trương Phi,
Mặt trời hồng sáng mãi lòng Quan Vũ.
Tổ quốc suốt năm không tin tức,
Mong thư trả lời của quê nhà hàng ngày.

Dịch

Cành lá khéo in hình Dực Đức,
Vầng hồng sáng mãi dạ Quan Công;
Năm tròn cố quốc tăm hơi vắng,
Tin tức bên nhà bữa bữa trông.

昔君送我至江濱,
問我歸期指谷新。
現在新田已犁好,
他鄉我作獄中人。

Ức hữu

Tích quân tống ngã chí giang tân,
Vấn ngã quy kỳ, chỉ cốc tân.
Hiện tại tân điền dĩ lê hảo,
Tha hương ngã tác ngục trung nhân.

Dịch nghĩa

Ngày nào anh tiễn tôi đến bến sông,
Hỏi tôi ngày về, trỏ mùa lúa mới;
Đến nay ruộng lại đã cày xong hết rồi,
Nơi đất khách, tôi thành người trong tù.

Dịch

Ngày đi bạn tiễn đến bên sông,
Hẹn bạn về khi lúa đỏ đồng;
Nay gặt đã xong, cày đã khắp,
Quê người, tôi vẫn chốn lao lung.

晚餐吃了日西沉,
處處山歌與樂音。
幽暗靖西禁閉室,
忽成美術小翰林。

Vãn

Vãn xan ngật liễu nhật tây trầm,
Xứ xứ sơn ca dữ nhạc âm.
U ám Tĩnh Tây cấm bế thất,
Hốt thành mỹ thuật tiểu hàn lâm.

Dịch nghĩa

Cơm chiều xong, mặt trời lặn về tây,
Khắp nơi, rộn tiếng ca dân dã và tiếng nhạc;
Nhà ngục u ám huyện Tĩnh Tây,
Bỗng thành một viện hàn lâm nghệ thuật nhỏ.

Dịch

Cơm xong, bóng đã xuống trầm trầm,
Vang tiếng đàn ca, rộn tiếng ngâm;
Nhà ngục Tĩnh Tây mờ mịt tối,
Bỗng thành nhạc quán viện hàn lâm.

玫瑰花開花又謝,
花開花謝兩無情。
花香透入籠門裡,
向在籠人訴不平。

Vãn cảnh

Mai khôi hoa khai hoa hựu tạ,
Hoa khai hoa tạ lưỡng vô tình;
Hoa hương thấu nhập lung môn lý,
Hương tại lung nhân tố bất bình.

Dịch nghĩa

Hoa hồng nở hoa hồng lại tàn,
Hoa nở hoa tàn đều vô tình;
Hương thơm bay vào thấu trong ngục,
Tới kể với người trong ngục nỗi bất bình.

Dịch

Hoa hồng nở hoa hồng lại rụng,
Hoa tàn, hoa nở cũng vô tình;
Hương hoa bay thấu vào trong ngục,
Kể với tù nhân nỗi bất bình.

銕繩硬替麻繩軟,
步步叮噹環珮聲。
雖是嫌疑間諜犯,
儀容卻像舊公卿。

Vãng Nam Ninh

Thiết thằng ngạnh thế ma thằng nhuyễn,
Bộ bộ đinh đang hoàn bộ thanh.
Tuy thị hiềm nghi gián điệp phạm,
Nghi dung khước tượng cựu công khanh.

Dịch nghĩa

Xích sắt cứng đã thay thừng gai mềm,
Bước mỗi bước leng keng như tiếng ngọc;
Tuy là người tù bị tình nghi gián điệp,
Nhưng bộ dạng lại giống vị công khanh ngày trước.

Dịch

Hôm nay xiềng xích thay dây trói,
Mỗi bước leng keng tiếng ngọc rung;
Tuy bị tình nghi là gián điệp,
Mà sao khanh tướng vẻ ung dung.

寧死不甘奴隸苦,
義旗到處又飄揚。
可憐余做囚中客,
未得躬親上戰場。

Việt hữu tao động (Ung báo, Xích đạo tấn 14-11)

Ninh tử, bất cam nô lệ khổ,
Nghĩa kỳ đáo xứ hựu phiêu dương;
Khả liên dư tố tù trung khách,
Vị đắc cung thân thướng chiến trường.

Dịch nghĩa

Thà chết, không chịu nỗi khổ làm nô lệ,
Cờ nghĩa lại tung bay khắp nơi;
Xót mình vẫn là khách trong tù,
Chưa được đích thân ra nơi chiến trường.

Dịch

Thà chết chẳng cam nô lệ mãi,
Tung bay cờ nghĩa khắp trăm miền;
Xót mình giam hãm trong tù ngục,
Chưa được xông ra giữa trận tiền.

獄中無酒亦無花,
對此良宵奈若何。
人向窗前看明月,
月從窗隙看詩家。

Vọng nguyệt

Ngục trung vô tửu diệc vô hoa,
Đối thử lương tiêu nại nhược hà?
Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt,
Nguyệt tòng song khích khán thi gia.

Dịch nghĩa

Trong tù không rượu cũng không hoa,
Trước cảnh đẹp đêm nay biết làm thế nào?
Người hướng ra trước song ngắm trăng sáng,
Từ ngoài khe cửa, trăng ngắm nhà thơ.

Dịch

Trong tù không rượu cũng không hoa,
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ.
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.

身体在獄中,
精神在獄外。
欲成大事業,
精神更要大。

Vô đề (I)

Thân thể tại ngục trung,
Tinh thần tại ngục ngoại.
Dục thành đại sự nghiệp,
Tinh thần cánh yếu đại.

Dịch nghĩa

Thân thể ở trong ngục,
Tinh thần ở ngoài ngục;
Muốn nên sự nghiệp lớn,
Tinh thần càng phải cao.

Dịch

Thân thể ở trong lao,
Tinh thần ở ngoài lao;
Muốn nên sự nghiệp lớn,
Tinh thần phải càng cao.

Ông là một nhà thơ có lòng nhiệt huyết với sự nghiệp sáng tác. Không ngừng tự học và làm việc miệt mài vì mục đích lâu dài, đó là phát triển sự nghiệp văn học, văn hóa nước nhà. Tên tuổi Nam Trân đã theo thơ Bác, Thơ Ðường mà đến với các bạn đọc trẻ. Những thi phẩm ấy luôn mãi gắn bó với nhiều thế hệ người dân Việt Nam. Chúng ta thêm phần cảm phục ngòi bút của ông. Cảm ơn quý độc giả đã theo dõi bài viết của chúng tôi!

Xem Thêm : Nam Trân cùng tập thơ dịch Hồ Chí Minh được yêu thích nhất phần 3

Related posts

Nhà thơ Thái Bá Tân và tuyển tập thơ dịch tác giả khác phần 7

admin

Nhà Thơ Tôn Nữ Hỷ Khương Cùng Chùm Thơ Đi Cùng Năm Tháng

admin

Chùm Thơ Của Bùi Huy Phồn Hay, Giàu Ý Nghĩa Nhân Văn

admin

Leave a Comment