Nhà Thơ Nổi Tiếng

Nguyễn Du với tập thơ Bắc hành tạp lục 北行雜錄 Phần cuối

Giới thiệu đến quý độc giả yêu thơ Nguyễn Du phần cuối tập thơ Bắc hành tạp lục 北行雜錄. Hi vọng với những chia sẻ dưới đây giúp quý độc giả có những giây phút cảm nhận thơ Nguyễn Du thú vị nhất và hiểu rõ phong cách thơ Nguyễn Du.

Nội Dung

周郎墓
燒盡曹家百萬兵,
丈夫差得慰平生。
同年交誼聯孫策,
一世知音得孔明。
瓦礫吳宮荒帝業,
荊蓁古墓上雄名。
二喬香骨藏何所,
眼見銅臺半已傾。

Chu Lang mộ
Thiêu tận Tào gia bách vạn binh,
Trượng phu sai đắc uý bình sinh.
Đồng niên giao nghị liên Tôn Sách,
Nhất thế tri âm đắc Khổng Minh.
Ngoã lịch Ngô cung hoang đế nghiệp,
Kinh trăn cổ mộ thượng hùng danh.
Nhị Kiều hương cốt tàng hà sở,
Nhãn kiến Đồng đài bán dĩ khuynh.

Dịch nghĩa
Đốt sạch trăm vạn quân họ Tào
Trượng phu cũng đủ thoả chí bình sinh
Đồng niên anh em bạn rể cùng Tôn Sách
Một đời tri âm có được Khổng Minh
Cung Ngô thành ngói gạch vụn, nghiệp đế tan hoang
Ngôi mộ cổ gai góc mọc đầy, nức tiếng anh hùng
Hương cốt hai Kiều vùi lấp nơi đâu
Mắt thấy đài Đồng Tước một nửa đã nghiêng đổ

Chu Lang tức Chu Du 周瑜, tự Công Cẩn 公瑾, làm đô đốc quân Đông Ngô 東吳. Lúc mới 24 tuổi đã làm tướng, người ta gọi là Chu Lang. Chu Du đánh bại Tào Tháo 曹操 ở trận Xích Bích 赤壁.

祖山道中
楓樹林中葉亂飛,
驚沙作雨上征衣。
蕭蕭枯草路一線,
寂寂斜陽山四圍。
去日兩河曾習戰,
紆途千里正思歸。
皤皤白髮紅塵路,
日暮登高悲莫悲。

Tổ Sơn đạo trung
Phong thụ lâm trung diệp loạn phi,
Kinh sa tác vũ thướng chinh y.
Tiêu tiêu khô thảo lộ nhất tuyến,
Tịch tịch tà dương sơn tứ vi.
Khứ nhật Lưỡng Hà tằng tập chiến,
Hu đồ thiên lí chính tư quy.
Bà bà bạch phát hồng trần lộ,
Nhật mộ đăng cao bi mạc bi.

Dịch nghĩa
Trong rừng phong lá bay loạn
Cát tung lên như mưa trên áo người đi
Suốt dặm đường, chỉ là cỏ khô xơ xác
Chiều hôm quạnh quẽ, núi vây bốn bề
Hôm trước, Lưỡng Hà chiến tranh liên miên
Đường đi vòng dài nghìn dặm, làm nhớ quê
Tóc bạc phơ trên đường bụi đỏ
Trời tối lên cao, không gì buồn thế

Tổ Sơn: Tên vùng núi phía bắc Hoàng Châu 黃州, tỉnh Chiết Giang 浙江.

廣濟記勝
江南湖北地相鄰,
日日繁華不記春。
玉笛樓頭天上曲,
垂楊門外畫中人。
漆盆浴店傾肥皁,
玉手胡姬膾細鱗。
欲典鷫鷞謀一醉,
奈何頭已白如銀。

Quảng Tế ký thắng
Giang Nam, Hồ Bắc địa tương lân,
Nhật nhật phồn hoa bất ký xuân.
Ngọc địch lâu đầu thiên thượng khúc,
Thuỳ dương môn ngoại hoạ trung nhân.
Tất bồn dục điếm khuynh phi tạo,
Ngọc thủ Hồ cơ khoái tế lân.
Dục điển túc sương mưu nhất tuý,
Nại hà đầu dĩ bạch như ngân.

Quảng Tế: tên một huyện thuộc tỉnh Hồ Bắc.

途中偶興
山下喬松松下墳,
纍纍都是古時人。
自由自在不知死,
花落花開無限春。
伏臘子孫空酹酒,
世間富貴等浮雲。
百年到底皆如是,
回首芒芒一片塵。

Đồ trung ngẫu hứng
Sơn hạ kiều tùng, tùng hạ phần,
Luy luy đô thị cổ thời nhân.
Tự do tự tại bất tri tử,
Hoa lạc hoa khai vô hạn xuân.
Phục lạp tử tôn không loại tửu,
Thế gian phú quí đẳng phù vân.
Bách niên đáo để giai như thị,
Hồi thủ mang mang nhất phiến trần.

Dịch nghĩa
Dưới chân núi là thông cao, dưới tàn thông là mồ mả
Ngổn ngang gò đống, đều là người xưa cả
Tự do tự tại không biết là đã chết
Hoa rụng hoa nở, mùa xuân vô hạn
Đến tiết phục lạp, con cháu uổng công tưới rượu xuống đất
Giàu sang trên đời như mây nổi
Trăm năm rốt cuộc đều như thế
Quay đầu nhìn chỉ thấy một áng bụi mịt mùng

榮棨期拾穗處
三樂人皆有,
如何子獨知。
生貧猶不恤,
老死復何悲。
曠野東山下,
行歌拾穗時。
賢名留此地,
天古起人思。

Vinh Khải Kỳ thập tuệ xứ
Tam lạc nhân giai hữu,
Như hà tử độc tri.
Sinh bần do bất tuất,
Lão tử phục hà bi.
Khoáng dã Đông Sơn hạ,
Hành ca thập tuệ thì.
Hiền danh lưu thử địa,
Thiên cổ khởi nhân tư.

Dịch nghĩa
Ba niềm vui của ông, mọi người đều có
Sao chỉ mình ông biết?
Sống nghèo còn chẳng đoái nghĩ
Già chết lại buồn chi?
Cánh đồng bát ngát bên núi Đông Sơn
Vừa ca vừa mót lúa
Tiếng người hiền lưu lại đất này
Xưa nay người ta nhớ

Vinh Khải Kỳ là một ẩn sĩ đời Xuân Thu. Sách Liệt tử chép: Khổng Tử đi chơi, thấy Vinh Khải Kỳ ở ngoài đồng vừa đi vừa hát bèn hỏi: “Tiên sinh có điều gì vui mà hát thế?” Vinh Khải Kỳ đáp: “Tôi có rất nhiều điều vui: vui được làm người, quí hơn muôn vật; vui được làm người đàn ông, quí hơn đàn bà; vui được sống lâu 90 tuổi, không chết non. Đó là ba điều vui vậy. Thập tuệ là mót lúa, cũng là tên một bài ca.

黃州竹樓
合圍巨竹遍郊衢,
曾有前人建此樓。
舊址何時成白地,
遺文從古記黃州。
後人徒有千年感,
當日曾無隔歲謀。
惟有長江巧收拾,
一成一毀盡東流。

Hoàng Châu trúc lâu
Hợp vi cự trúc biến giao cù,
Tằng hữu tiền nhân kiến thử lâu.
Cựu chỉ hà thì thành bạch địa,
Di văn tòng cổ ký Hoàng Châu.
Hậu nhân đồ hữu thiên niên cảm,
Đương nhật tằng vô cách tuế mưu.
Duy hữu Trường giang xảo thu thập,
Nhất thành nhất huý tẫn đông lưu.

Hoàng Châu nay là huyện Hoàng Cương, tỉnh Hồ Bắc.

孟子祠古柳
吾聞天池之濆有龍夭矯,
今之畫圖無略肖。
風雨一夜飛下來,
化為亞聖官門柳。
此柳渾全百十圍,
養成大物非一時。
雨露天意獨滋潤,
鬼神暗中相扶持。
枝柯落落老益壯,
歲月悠悠深不知。
左蟠右轉當大道,
過客不敢攀其枝。
蔥蔥鬱鬱抱元氣,
天下斯文其在斯。
鄉人支以二石柱,
石柱既深根愈固。
不同凡卉小春秋,
半畝風煙自今古。
灝然之氣非尋常,
大樹應與天齊壽。

Mạnh Tử từ cổ liễu
Ngô văn thiên trì chi phần hữu long yêu kiểu,
Kim chi hoạ đồ vô lược tiếu.
Phong vũ nhất dạ phi há lai,
Hoá vi á thánh cung môn liễu.
Thử liễu hồn toàn bách thập vi,
Dưỡng thành đại vật phi nhất thì.
Vũ lộ thiên ý độc tư nhuận,
Quỷ thần ám trung tương phù trì.
Chi kha lạc lạc lão ích tráng,
Tuế nguyệt du du thâm bất tri.
Tả bàn hữu chuyển đương đại đạo,
Quá khách bất cảm phan kỳ chi.
Thông thông uất uất bão nguyên khí,
Thiên hạ tư văn kỳ tại ti (tư).
Hương nhân chi dĩ nhị thạch trụ,
Thạch trụ ký thâm căn dũ cố.
Bất đồng phàm huỷ tiểu xuân thu,
Bán mẫu phong yên tự kim cổ.
Hạo nhiên chi khí phi tầm thường,
Đại tài ưng dữ thiên tề thọ.

Mạnh Tử: người nước Trâu, phía nam tỉnh Sơn Đông ngày nay. Ông đi khắp các nước tề, Lương, Tống, Đằng, lúc già lại về nước, cùng với học trò làm sách Mạnh Tử. Đền thờ Mạnh Tử nói đây là ở Sơn Đông.

徐州夜
行路避干戈,
嚴寒渡夜河。
月來南國大,
山入北徐多。
城外列兵甲,
城中聞絃歌。
枯楊三百樹,
樹樹有啼鴉。

Từ Châu dạ
Hành lộ tị can qua,
Nghiêm hàn độ dạ hà.
Nguyệt lai nam quốc đại,
Sơn nhập bắc Từ đa.
Thành ngoại liệt binh giáp,
Thành trung văn huyền ca.
Khô dương tam bách thụ,
Thụ thụ hữu đề nha.

Dịch nghĩa
Đi đường phải tránh vùng giặc giã
Giữa đêm đông giá lạnh, qua sông
Phía nước Nam, trăng lớn
Bắc Từ Châu, núi nhiều
Ngoài thành đầy binh giáp
Trong thành nghe đàn ca
Ba trăm cây dương khô héo
Trên các cây, tiếng quạ kêu

潛山道中
夙有愛山癖,
別後思何如。
來到潛山路,
宛如鴻嶺居。
雲霞猿嘯外,
松柏鶴巢餘。
定有山中客,
平生不識余。

Tiềm Sơn đạo trung
Túc hữu ái sơn tích,
Biệt hậu tư hà như.
Lai đáo Tiềm Sơn lộ,
Uyển như Hồng Lĩnh cư.
Vân hà viên khiếu ngoại,
Tùng bách hạc sào dư.
Định hữu sơn trung khách,
Bình sinh bất thức dư.

Dịch nghĩa
Ta vốn có tính yêu núi
Xa rồi nhớ bao nhiêu
Nay trên đường đi Tiềm Sơn
Tưởng như ở trong dãy Hồng Lĩnh
Mây ráng bên ngoài nơi vượn hú
Cây tùng cây bách có thừa chỗ cho hạc làm tổ
Hẳn có người trong núi
Suốt đời không quen biết ta

Tiềm Sơn: núi thuộc huyện Tiềm Sơn, tỉnh An Huy 安徽.

桃花潭李青蓮舊跡
桃花潭水千尺清,
潭上松柏冬猶青。
道是唐朝李供奉,
縱飲此潭因得名。
十年酒肆人間世,
天子呼來猶爛醉。
自言臣是酒中仙,
薄視榮名同敝履。
千年勝跡以人傳,
不在悠悠一潭水。
潭水至今清且漣,
一魚一鳥皆成仙。
惆悵斯人不復見,
遠來使我心茫然。
世路塵埃信溷濁,
不如終日痛飲全吾天。

Đào Hoa đàm Lý Thanh Liên cựu tích
Đào Hoa đàm thuỷ thiên xích thanh,
Đàm thượng tùng bách đông do thanh.
Đạo thị Đường triều Lý cung phụng,
Túng ẩm thử đàm nhân đắc danh.
Thập niên tửu tứ nhân gian thế,
Thiên tử hô lai do lạn tuý.
Tự ngôn thần thị tửu trung tiên,
Bạc thị vinh danh đồng tệ lý.
Thiên niên thắng tích dĩ nhân truyền,
Bất tại du du nhất đàm thuỷ.
Đàm thuỷ chí kim thanh thả liên,
Nhất ngư nhất điểu giai thành tiên.
Trù trướng tư nhân bất phục kiến,
Viễn lai sử ngã tâm mang nhiên.
Thế lộ trân ai tín hỗn trọc,
Bất như chung nhật thống ẩm toàn ngô thiên.

桃花驛道中其一
潛山入百里,
西接楚山雲。
古石瘦如鬼,
新松長比人。
萬畦宜菽麥,
十日隔風塵。
白連河北山,
山中如不聞。

Đào Hoa dịch đạo trung kỳ 1
Tiềm Sơn bát bách lý,
Tây tiếp Sở sơn vân.
Cổ thạch sấu như quỷ,
Tân tùng trường tỷ nhân
Vạn huề nghi thục mạch,
Thập nhật cách phong trần.
Bạch Liên Hà Bắc sơn,
Sơn trung như bất văn.

Dịch nghĩa
Trạm Đào Hoa cách Tiềm Sơn tám trăm dặm,
Phía tây tiếp liền mây núi Sở.
Đá cổ gầy như quỷ,
Thông non cao bằng người.
Vạn khoảng ruộng, dâu lúa đều tốt,
Đã mười ngày xa gió bụi.
Qua dãy Bạch Liên ở Hà Bắc,
Trong núi vắng lặng như không nghe thấy gì.

Đào Hoa thuộc tỉnh An Huy 安徽, nơi có đầm Đào Hoa nổi tiếng (xem bài Đào Hoa đàm Lý Thanh Hiên cựu tích).

桃花驛道中其二
雞犬出桑麻,
沿溪小逕斜。
山田常積水,
野飯半含沙。
石隱高人屋,
塵隨貴者車。
孤煙在天末,
今夜宿誰家?

Đào Hoa dịch đạo trung kỳ 2
Kê khuyển xuất tang ma,
Duyên khê tiểu kính tà.
Sơn điền thường tích thuỷ,
Dã phạn bán hàm sa.
Thạch ẩn cao nhân ốc,
Trần tuỳ quí giả xa.
Cô yên tại thiên mạt,
Kim dạ túc thuỳ gia ?

Dịch nghĩa
Gà chó từ đám dâu chạy ra.
Một lối nhỏ chênh chếch men theo khe.
Ruộng núi thường chứa nước.
Bữa cơm ngoài đồng lẫn cát sạn.
Đá che lấp nhà người cao sĩ,
Bụi bám theo xe người sang trọng.
Ngọn khói lẻ loi tận chân trời,
Đêm nay biết nghỉ nhà ai?

梁昭明太子分經石臺
梁朝昭明太子分經處,
石臺猶記分經字。
臺基蕪沒雨花中,
百草驚寒盡枯死。
不見遺經在何所,
往事空傳梁太子。
太子年少溺菸文,
強作解事徒紛紛。
佛本是空不著物,
何有乎經安用分。
靈文不在言語科,
孰為金剛為法華。
色空境界茫不悟,
癡心歸佛佛生魔。
一門父子多膠蔽,
一念之中魔自至。
山陵不涌蓮花臺,
白馬朝渡長江水。
楚林禍木池殃魚,
經卷燒灰臺亦圯。
空留無益萬千言,
後世愚僧徒聒耳。
吾聞世尊在靈山,
說法渡人如恆河沙數。
人了此心人自渡,
靈山只在汝心頭。
明鏡亦臺,
菩提本無樹。
我讀金剛千遍零,
其中奧旨多不明。
及到分經石臺下,
終知無字是眞經。

Lương Chiêu Minh thái tử phân kinh thạch đài
Lương triều Chiêu Minh thái tử phân kinh xứ
Thạch đài do ký “Phân kinh” tự
Đài cơ vu một vũ hoa trung
Bách thảo kinh hàn tận khô tử
Bất kiến di kinh tại hà sở
Vãng sự không truyền Lương thái tử
Thái tử niên thiếu nịch ư văn
Cưỡng tác giải sự đồ phân phân
Phật bản thị không bất trước vật
Hà hữu hồ kinh an dụng phân
Linh văn bất tại ngôn ngữ khoa
Thục vi Kim Cương vi Pháp Hoa
Sắc không cảnh giới mang bất ngộ
Si tâm quy Phật Phật sinh ma
Nhất môn phụ tử đa giao tế
Nhất niệm chi trung ma tự chí
Sơn lăng bất dũng liên hoa đài
Bạch mã triêu độ Trường Giang thuỷ
Sở lâm hoạ mộc trì ương ngư
Kinh quyển thiêu hôi đài diệc dĩ
Không lưu vô ích vạn thiên ngôn
Hậu thế ngu tăng đồ quát nhĩ
Ngô văn Thế Tôn tại Linh Sơn
Thuyết pháp độ nhân như Hằng Hà sa số
Nhân liễu thử tâm nhân tự độ
Linh Sơn chỉ tại nhữ tâm đầu
Minh kính diệc phi đài
Bồ Đề bản vô thụ
Ngã độc Kim Cương thiên biến linh
Kì trung áo chỉ đa bất minh
Cập đáo Phân kinh thạch đài hạ
Chung tri vô tự thị chân kinh

Dịch nghĩa
Nơi Chiêu Minh thái tử triều Lương chia kinh
Đài đá còn ghi chữ “Chia kinh”
Nền đài gai góc lấp trong mưa bụi
Trăm loài cỏ sợ lạnh đều chết khô hết
Không thấy kinh còn lại nơi đâu
Chỉ nghe kể chuyện thời xưa
Lương thái tử thời niên thiếu say mê văn chương
Gượng bày đặt phân tách chi ly rắc rối
Phật vốn là không, chẳng vướng vào vật
Có gì tuỳ thuộc vào kinh mà chia với phân?
Văn thiêng không phải nhờ khoa ngôn ngữ
Cái gì là kinh Kim Cương, cái chi là kinh Pháp Hoa?
Cảnh giới Sắc Không mờ mịt không hiểu
U mê mà theo Phật thì Phật sinh ra ma
Cha con một nhà cùng mù quáng hết
Chỉ trong một niệm, ma tự đến
Ở nơi lăng núi không có đài sen nổi lên
Một sớm ngựa trắng vượt sông Trường Giang
Rừng nước Sở cháy, cây gặp tai hoạ, cá trong ao bị vạ
Kinh cháy ra tro, đài cũng đổ
Muôn nghìn lời để lại đều vô ích
Chỉ để cho đám sư ngu dốt đời sau tụng đọc điếc tai
Ta nghe nói đức Thế Tôn tại Linh Sơn
Thuyết Pháp cứu người nhiều như cát sông Hằng
Người hiểu tâm này, người tự độ
Linh Sơn chính ở tại lòng ta
Gương sáng không có đài
Bồ đề vốn không cây
Ta đọc Kinh Kim cương hơn nghìn lần
Nhiều yếu chỉ sâu sắc trong đó ta không rõ
Đến nay, dưới đài đá “Chia kinh”
Mới hiểu kinh “không chữ” mới thật là chân kinh

Lương (502-556) là một trong bốn triều vua thời Nam Triều (Tống, Lê, Lương, Trần). Thái tử Chiêu Minh tên là Chiêu Thống, con của Lương Vũ Đế 梁武帝, tức Tiêu Diễn 蕭統 (502-549), thời Nam Bắc triều 南北朝, hai cha con đều sùng bái đạo Phật. Học rộng, ham nghiên cứu văn học, là tác giả bộ Văn tuyển 文選.

西河驛
青石橋西岸,
依然小里閭。
道傍人語雜,
屋後竹陰疏。
禾本供晨燒,
春聯待歲除。
相逢無別話,
一笑意何如。

Tây Hà dịch
Thanh thạch kiều tây ngạn,
Y nhiên tiểu lý lư.
Đạo bàng nhân ngữ tạp,
Ốc hậu trúc âm sơ.
Hoà bản cung thần thiếu,
Xuân liên đãi tuế trừ.
Tương phùng vô biệt thoại,
Nhất tiếu ý hà như.

Dịch nghĩa
Bên bờ phía tây cầu đá xanh
Xóm nhỏ vẫn như cũ
Bên đường tiếng người tạp nhạp
Sau nhà bóng trúc thưa
Gốc rạ dành để đốt lửa sớm
Câu đối xuân chờ hết năm cũ
Gặp nhau không nói năng gì
Chỉ cười, ý ra sao

Tây Hà thuộc tỉnh Sơn Tây.

所見行
有婦攜三兒,
相將坐道旁。
小者在懷中,
大者持竹筐。
筐中何所盛,
藜藿雜枇糠。
日晏不得食,
衣裙何框禳。
見人不仰視,
淚流襟浪浪。
群兒且喜笑,
不知母心傷。
母心傷如何,
歲饑流異鄉。
異鄉稍豐熟,
米價不甚昂。
不惜棄鄉土,
苟圖救生方。
一人竭傭力,
不充四口糧。
沿街日乞食,
此計安可長。
眼下委溝壑,
血肉飼豺狼。
母死不足恤,
撫兒增斷腸。
奇痛在心頭,
天日皆為黃。
陰風飄然至,
行人亦悽惶。
昨宵西河驛,
供具何張黃。
鹿筋雜魚翅,
滿棹陳豬羊。
長官不下箸,
小們只略嘗。
撥棄無顧惜,
鄰狗厭膏粱。
不知官道上,
有此窮兒娘。
誰人寫此圖,
持以奉君王。

Sở kiến hành
Hữu phụ huề tam nhi
Tương tương toạ đạo bàng
Tiểu giả tại hoài trung
Ðại giả trì trúc khuông
Khuông trung hà sở thịnh
Lê hoắc tạp tì khang
Nhật án bất đắc thực
Y quần hà khuông nhương
Kiến nhân bất ngưỡng thị
Lệ lưu khâm lang lang
Quần nhi thả hỉ tiếu
Bất tri mẫu tâm thương
Mẫu tâm thương như hà
Tuế cơ lưu dị hương
Dị hương sảo phong thục
Mễ giá bất thậm ngang
Bất tích khí hương thổ
Cẩu đồ cứu sinh phương
Nhất nhân kiệt dung lực
Bất sung tứ khẩu lương
Duyên nhai nhật khất thực
Thử kế an khả trường
Nhãn hạ uỷ câu hác
Huyết nhục tự sài lang
Mẫu tử bất túc tuất
Phủ nhi tăng đoạn trường
Kỳ thống tại tâm đầu
Thiên nhật giai vị hoàng
Âm phong phiêu nhiên chí
Hành nhân diệc thê hoàng
Tạc tiêu Tây Hà dịch
Cung cụ hà trương hoàng
Lộc cân tạp ngư xí
Mãn trác trần trư dương
Trưởng quan bất hạ trợ
Tiểu môn chỉ lược thường
Bát khí vô cố tích
Lân cẩu yếm cao lương
Bất tri quan đạo thượng
Hữu thử cùng nhi nương
Thuỳ nhân tả thử đồ
Trì dĩ phụng quân vương

Dịch nghĩa
Có người đàn bà dắt ba đứa con
Cùng nhau ngồi bên đường
Ðứa nhỏ trong bụng mẹ
Ðứa lớn cầm giỏ tre
Trong giỏ đựng gì lắm thế?
Rau lê, hoắc lẫn cám
Qua trưa rồi chưa được ăn
Áo quần sao mà rách rưới quá
Thấy người không ngẩng nhìn
Nước mắt chảy ròng ròng trên áo
Lũ con vẫn vui cười
Không biết lòng mẹ đau
Lòng mẹ đau ra sao?
Năm đói lưu lạc đến làng khác
Làng khác mùa màng tốt hơn
Giá gạo không cao quá
Không hối tiếc đã bỏ làng đi
Miễn sao tìm được phương tiện sống
Một người làm hết sức
Không đủ nuôi bốn miệng ăn
Dọc đường mỗi ngày đi ăn mày
Cách ấy làm sao kéo dài mãi được
Thấy trước mắt cái lúc bỏ xác bên ngòi rãnh
Máu thịt nuôi lang sói
Mẹ chết không thương tiếc
Vỗ về con càng thêm đứt ruột
Trong lòng đau xót lạ thường
Mặt trời vì thế phải vàng uá
Gió lạnh bỗng ào tới
Người đi đường cũng đau đớn làm sao
Ðêm qua ở trạm Tây Hà
Tiệc tùng cung phụng khoa trương quá mức
Gân hươu cùng vây cá
Ðầy bàn thịt heo, thịt dê
Quan lớn không thèm đụng đũa
Ðám theo hầu chỉ nếm qua
Vứt bỏ không luyến tiếc
Chó hàng xóm cũng ngán món ăn ngon
Không biết trên đường cái
Có mẹ con đói khổ nhà này
Ai người vẽ bức tranh đó
Ðem dâng lên nhà vua

黃梅山上村
山下有長松,
山上有遙村。
山下長松梢,
正當山上門。
門內所居人,
窮年何所為。
女事惟績麻,
其男業耘耔。
耘耔苟得閒,
下山伐松枝。
聊以足官稅,
不事書與詩。
催租一不到,
雞犬皆熙熙。
密石礙車馬,
雜花當歲時。
山外興與廢,
山中皆不知。
算來一年中,
所憂無一時。
所以山中人,
人人皆其頤。
松花柏子肯許食,
白頭去此將安歸。

Hoàng Mai sơn thượng thôn
Sơn hạ hữu trường tùng
Sơn thượng hữu diêu thôn
Sơn hạ trường tùng sao
Chính đương sơn thượng môn
Môn nội sở cư nhân
Cùng niên hà sở vi
Nữ sự duy tích ma
Kì nam nghiệp vân tỉ
Vân tỉ cẩu đắc gian
Hạ sơn phạt tùng chi
Liêu dĩ túc quan thuế
Bất sự thư dữ thi
Thôi tô nhất bất đáo
Kê khuyển giai hi hi
Mật thạch ngại xa mã
Tạp hoa đương tuế thì
Sơn ngoại hưng dữ phế
Sơn trung giai bất tri
Toán lai nhất niên trung
Sở ưu vô nhất thì
Sở dĩ sơn trung nhân
Nhân nhân giai kỳ di
Tùng hoa bách tử khẳng hứa thực
Bạch đầu khứ thử tương an quy

Dịch nghĩa
Dưới chân núi có tùng cao
Trên núi có xóm xa
Ngọn tùng cao dưới núi
Cao ngang cổng trên núi
Người ở trong cổng ấy
Quanh năm làm gì?
Việc đàn bà chỉ là xe sợi gai
Việc đàn ông là cầy cấy
Cầy cấy, lúc nhàn rỗi
Xuống núi chặt cành tùng
Lo đủ thuế nộp cho quan
Không bận sách cùng thơ
Quan đòi thuế mà không đến
Gà chó vui phởn phơ
Đá kín dầy cản xe ngựa
Các loại hoa cho biết mùa trong năm
Sự hưng phế bên ngoài núi
Người ở trong núi đều không biết
Tính lại suốt năm
Chẳng bao giờ lo âu
Cho nên người trong núi
Người người sống lâu trăm tuổi
Hoa tùng quả bách mà ăn được
Khi bạc đầu, không về đây còn đi đâu nữa

Hoàng Mai: Núi ở huyện Hoàng Mai, thuộc tỉnh Hồ Bắc. Bài thơ có khí vị giống bài Đào hoa nguyên ký của Đào Uyên Minh (365-427): “Dân trong vùng Suối hoa đào cũng ăn no mặc ấm, vui vẻ với phong tục của mình, không giao thiệp với người ngoài, cũng chẳng có quan lại triều đình gì cả, và tiếng gà tiếng chó tiếp nhau”. (Xem Cổ văn Trung quốc, Nguyễn Hiến Lê, Xuân Thu xuất bản, Houston, USA, trang 189).

黃梅道中
吳山行已遍,
楚山來更多。
到得青山盡,
其如白髮何。
衡岳雪初霽,
洞庭春水波。
計程在三月,
猶及薔薇花。

Hoàng Mai đạo trung
Ngô sơn hành dĩ biến,
Sở sơn lai cánh đa.
Đáo đắc thanh sơn tận,
Kì như bạch phát hà.
Hành Nhạc tuyết sơ tễ,
Động đình xuân thuỷ ba.
Kế trình tại tam nguyệt,
Do cập tường vi hoa.

Dịch nghĩa
Núi nước Ngô đã đi khắp
Đến nước Sở, núi càng nhiều
Đến được chỗ tận cùng núi xanh
Đầu bạc biết sao bây giờ
Đến Hành Dương, Nhạc Dương, tuyết vừa tạnh
Hồ Động Đình, nước xuân sóng sánh
Tính đường đi, tháng ba về tới
Còn kịp thấy hoa tường vi

Hoàng Mai: dãy núi ở huyện Hành Dương 衡陽 tỉnh Hồ Nam.

舟發
去遍東南路,
匆匆歲欲週。
使從江漢口,
來泛洞庭舟。
人比來時瘦,
江同去日秋。
鶴樓成詠處,
白雲空悠悠。

Chu phát
Khứ biến đông nam lộ,
Thông thông tuế dục chu.
Sử tòng Giang Hán khẩu,
Lai phiếm Động Đình chu.
Nhân bỉ lai thì sấu,
Giang đồng khứ nhật thu.
Hạc lâu thành vịnh xứ,
Bạch vân không du du.

Dịch nghĩa
Đi khắp đường đông nam
Thấm thoát năm gần hết
Thuận theo cửa sông Giang Hán
Dong thuyền qua hồ Động Đình
Người gầy hơn so với lần đến
Sông vẫn là thu ngày trước
Ở chỗ vịnh thơ lầu thơ hạc cũ
Mây trắng cứ lững lờ trôi

Trên đường về nước, trong chuyến đi sứ Trung Quốc năm Quí Dậu (1813), Nguyễn Du khởi hành từ Yên Kinh (tức Bắc Kinh bây giờ) ngày 24 tháng 10. Trong bản tấu trình lên vua Gia Long, Nguyễn Du ghi rõ “đi theo một dãy các tỉnh Trực Lệ, Sơn Đông, An Huy, Hồ Bắc mà về Quảng Tây. (…) Ngày 11 tháng 12 mới đến tỉnh thành Võ Xương, từ đấy lại theo đường thuỷ mà đi”. Nguyễn Du qua sông Giang (Trường Giang) và sông Hán (Hán Khẩu), ghé Động Đình Hồ đẹp nhất trong Ngũ Hồ, thắng cảnh Trung Quốc. Nguyễn Du lại đi qua Võ Xương, nơi đã thăm trong lần đến, vào mùa thu năm đó. Võ Xương có Hoàng Hạc lâu là nơi Thôi Hiệu 崔顥 đề thơ: “Bạch vân thiên tải không du du” 白雲千載空悠悠 (Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay – Tản Đà dịch).

Trên đây là phần cuối của tập thơ Bắc hành tạp lục 北行雜錄  Nguyễn Du. Hi vọng với những chia sẻ của chúng tôi trên đây, những người yêu thơ Nguyễn Du sẽ có những phút giây cảm nhận thơ ông thú vị nhất.

Related posts

Nhà thơ Tản Đà và phần Đề, Từ, Đưa thư (Tập Khối tình con II 1918)

admin

BST Kho Tàng Thơ Đặc Sắc Của Cao Bá Quát Phần 2

admin

Nguyễn Khoa Điềm với các tập thơ nổi tiếng nhất Phần 1

admin

Leave a Comment