Nhà Thơ Nổi Tiếng

Nguyễn Trãi với tập thơ Quốc âm thi tập – Tập thơ Nôm bất hủ P2

Giới thiệu đến quý bạn đọc yêu thơ Nguyễn Trãi tập thơ Quốc âm thi tập – tập thơ Nôm bất hủ phần 2. Nội dung của tập thơ Quốc âm thi tập đều không có nhan đề. Đa phần là thơ tâm sự, tỏ chí hướng của nhà thơ.

Nội Dung

Đạo đức hiền lành được mọi phương,
Tự nhiên cả muốn chúng suy nhường.
Lợi tham hết lấy, nhiều thì cạnh,
Nghĩa phải đem cho, ít chẳng phường.
Sự thế sá phòng khi được mất,
Lòng người tua đoán thuở mừng thương.
“Chẳng nhàn” xưa chép lời truyền bảo,
Khiến chớ cho qua một đạo thường.

Bền đạo trung dung chẳng thuở tàng,
Màng chi phú quý nhọc khoe khoang.
Đông về tuyết muộn mai nhiều bạc,
Thu nẻo tin truyền cúc có vàng.
Kết bạn mựa quên người cố cựu,
Yên nhà nỡ phụ vợ tao khang.
Nước đào giếng, cơm cày ruộng,
Thay thảy dường bằng nguyệt Cửu Giang.

Có của hằng cho lại có thông,
Tích nhiều con cháu nọ trông.
Nghiệp Lưu Quý thịnh, đâu truyền báu ?
Bia Nguỵ Trưng cao, há nối tông ?
Hiềm kẻ say chưng bề tửu sắc,
Hoà người gìn được thói cha ông.
Còn nhiêu sá họp toan ăn uống,
Tám chín mươi thì vạn sự không.

Nhân nghĩa trung thần giữ tích ninh,
Khó thì hay khéo, khốn hay hanh.
Đời Thương thánh biết cầu Y Doãn,
Nhà Hán ai ngờ được Tử Khanh ?
Khi bão mới hay là cỏ cứng,
Thuở nghèo thì biết có tôi lành.
Kìa ai cây cả nhàn ngồi tựa,
Nếu có công nhiều lọ phải tranh.

Phúc của chung thì hoạ của chung,
Nắm thì hoạ khỏi phúc về cùng.
Văn chương chép lấy, đòi câu thánh,
Sự nghiệp tua gìn, phải đạo trung.
Trừ độc trừ tham trừ bạo ngược,
Có nhân có trí có anh hùng.
Nhìn cho biết nơi dường ấy,
Chẳng thấp thì cao ắt được dùng.

Lấy khi phú quý đắp cơ hàn,
Vần chuyển chẳng dừng sự thế gian.
Nếu khỏi tiểu nhân quân tử nhọc,
Dầu chăng quân tử tiểu nhân loàn.
Của nhiều sơn dã đem nhau đến,
Khó ở kinh thành thiếu kẻ han.
Hằng lấy đạo trung làm nghĩa cả,
Qua ngày qua tháng được an nhàn.

Cắp nắp làm chi hỡi thế gian,
Có thì ăn mặc chớ lo toan.
Đông hiềm giá lạnh chằm mền kép,
Hạ lệ mồ hôi kết áo đơn.
Nằm có chiếu chăn, cho ấm áp,
Ăn thì canh cá, chớ khô khan.
Phúc dầu hay đến trăm tuổi,
Mình thác thì nên mọi của tan.

Vinh hoa nhiều thấy khách đăm chiêu,
Bần tiện ai là kẻ trọng yêu.
Của đến nước xa nên quý giá,
Người lìa quê cũ lấy làm xiêu.
Nuôi con mới biết lòng cha mẹ,
Thấy loạn thì hay đời Thuấn Nghiêu.
Phúc gặp ngần nào ấy mệnh,
Làm chi đua nhọc tốn công nhiều.

Trần trần mựa cậy những ta lành,
Phúc hoạ tình cờ xẩy chửa đành.
Miệng thế nhọn hơn chông mác nhọn,
Lòng người quanh nữa nước non quanh.
Chẳng ngừa nhỏ âu nên lớn,
Nếu có sâu thì bỏ canh.
Ở thế an nhàn chăng có sự,
Ngàn muôn tốn nhượng chớ đua tranh.

Muốn ăn trái dưỡng nên cây,
Ai học thì hay mựa lệ thầy.
Nhợ dứt khôn cầm bà ngựa dữ,
Quan cao nào đến dáng người ngây.
Trị dân sơ lập dòng cho chính,
Có nước nhường in nguyệt khá rày.
Có chẳng có tài dùng chẳng đến,
Mựa rằng thánh đức có nơi khuây.

Cưu một lòng ngay khác chúng ngươi,
Ở chưng trần thế mấy phen cười.
Phúc nhiều sơ bởi nơi ta tích,
Xuân đến tự nhiên mọi vật tươi.
Có của bo bo bằng chực của,
Oán người nơm nớp những âu người.
Làm chi pháo phúc lòng nhau bấy,
Lắm nhân sinh bẩy tám mươi.

Giàu người họp, khó người tan,
Hai ấy bằng lề sự thế gian.
Những kẻ ân cần khi phú quý,
Hoà ai bao nặc thuở gian nan.
Lều không con cái bằng tình phụ,
Bếp lạnh anh tam biếng hỏi han.
Lòng thế bạc đen dầu nó biến,
Ta gìn nhân nghĩa chớ loàn đan.

Phú quý thì nhiều kẻ đến chen,
Uốn đòi thế thái tính chưa quen.
Cơm ăn miễn có, dầu xoa bạc,
Áo mặc âu chi, quản cũ đen.
Khó ngặt hãy bền lòng khó ngặt,
Chè khen mựa ngại tiếng chê khen.
Ruộng nhiều quê tổ năm ba thửa,
Tạc tỉnh canh điền tự tại nhàn.

Tài luận công danh hợp mọi bề,
Dại ngay nên thiếu kẻ khen chê.
Khách hiền nào quản quen cùng lạ,
Cơm đói nài chi hẩm liễn khê.
Yên phận cũ, chăng mừng phận khác,
Cả lòng đi, mặc nhủ lòng về.
Người cười dại khó ta cam chịu,
Đã kẻo lầm khâm liễn mất lề.

Bởi lòng chẳng ở cửa quyền,
Há rằng quân thần chẳng phải duyên.
Nô bộc có nhiều dân có khó,
Cửa nhà càng rộng thế càng phiền.
Đem mình non nước nhàn qua tuổi,
Kết bạn thông mai ngõ phỉ nguyền.
Chúc thánh cho tầy Nghiêu Thuấn nữa,
Được về ở thú điền viên.

Ăn lộc nhà quan chịu việc quan,
Chớ tham tiểu lợi phải gian nan.
Cầu hiền chí cũ mong cho được,
Bất nghĩa lòng nào mựa nỡ toan.
Giữ thuở phong lưu pha thuở khó,
Lấy khi phú quý đắp khi hàn.
Cho hay bĩ thái là lề cũ,
Nếu có nghèo thì có an.

Có tông có tộc mựa sơ thay,
Vạn diệp thiên chi bởi một cây.
Yêu trọng người dưng là của cải,
Thương vì thân thích nghĩa chân tay.
Quan cao nhắn nhủ môn đồ nọ,
Hoạn nạn phù trì huynh đệ bay.
Phiêu bạc cùng nhau còn được cậy,
Mưa nghe sàm nịnh có lòng tây.

Sinh đấng trung đà phúc đức thay,
Chẳng cao chẳng thấp miễn qua ngày.
Ở yên thì nhớ lòng xung đột,
Ăn lộc đều ơn kẻ cấy cày.
Nhiều của ấy, chẳng qua chữ nghĩa,
Dưỡng người cho, kẻo nhọc chân tay.
Trời đã có kho vô tận,
Dành để nhi tôn khỏi bợ vay.

Lành người đến, dữ người duồng,
Yêu xạ vì nhân mùi có hương.
Ở ngọt thì hơn nhiều kẻ trọng,
Quá chua liền úng có ai màng.
Lòng làm lành đổi lòng làm dữ,
Tính ở nhu hơn tính ở cương.
Ngâm kíp thắm thì phải lại kíp,
Yêu nhau chẳng đã đạo thường thường.

Ở bầu thì dáng ắt nên tròn,
Xấu tốt đều thì rắp khuôn.
Lân cận nhà giàu no bữa cám,
Bạn bè kẻ trộm phải đau đòn.
Chơi cùng đứa dại nên bầy dại,
Kết mấy người khôn học nết khôn.
Ở đấng thấp thì nên đấng thấp,
Đen gần mực, đỏ gần son.

Của thết người là của còn,
Khó khăn phải đạo cháo càng ngon.
Thấy ăn chạy đến thì no dạ,
Trợ đánh bênh nhau ắt phải đòn.
Chớ lấy hại người làm ích kỷ,
Hãy năng tích đức để cho con.
Tay ai thì lại làm nuôi miệng,
Làm biếng ngồi ăn lở núi non.

Rừng nho rộng nấn ngàn im,
Hột cải tình cờ được mũi kim.
Bể học trường văn hằng nhặt bới,
Đường danh lối lợi hiểm khôn tìm.
Chúa giàn nẻo khỏi tan con nghé,
Hòn đất hầu làm mất cái ghim.
Khóm ruộng ăn ngày tháng đủ,
Bạn cùng phiến sách tiếng đàn cầm.

Ai trách hiềm cây, lại trách mình,
Vốn xưa một cỗi thác cùng cành.
Cành khô xếp bấy, nay nên củi,
Hột chín phơi chừ, rắp để bình.
Than lửa hoài chưng, thương vật nấu,
Củi thiêu tiếng khóc cảm thần linh.
Thế gian ai có thì cốc,
Mựa nữa cho khuây nghĩa đệ huynh.

Cơn cớ nguyền cho biết sự do,
Xem mà quyết đoán lấy cương nhu.
Được thua cứ phép làm thừng mực,
Cao thấp nài nhau tựa đắn đo.
Lỗi thác sá toan nơi uỷ khúc,
Hoà hưu thì khiến nọ tù mù.
Tội ai cho nấy cam danh phận,
Chớ có thân sơ mới trượng phu.

Trong tạo hoá có cơ mầu,
Hay đỗ hay dừng mới kẻo âu.
Nước biếc non xanh thuyền gối bãi,
Đêm thanh nguyệt bạc khách lên lầu.
Chén châm rượu đục ngày ngày cạn,
Túi quẩy thơ nhàn chốn chốn thâu.
Kham hạ Nghiêm Quang từ chẳng đến,
Đồng giang được nấn một đài câu.

Một vườn hoa trúc bốn bề thâu,
Lánh thân nhàn được thú mầu.
Dưới tạc nên ao chín khúc,
Trong nuôi được cá nghìn đầu,
Cuộc lần cờ thấp tan ngày diễn,
Bếp thắng chè thô cởi thuở âu.
Bốn bể nhẫn còn mong đuốc đốt,
Dầu về dầu ở mặc ta dầu.

Nghìn dặm xem mây nhớ quê,
Chẳng chờ cởi ấn gượng xin về.
Một bầu phong nguyệt nhàn tự tại,
Hai chữ công danh biếng vả vê.
Dẫn suối nước đầy cái trúc,
Quẩy trăng túi nặng thẳng hề.
Đã ngoài chưng thế dầu hơn thiệt,
Chẳng quản ai khen chẳng quản chê.

Chớ người trọc trọc, chớ ta thanh,
Lấy phải thì trung đạo ở kinh.
Rồi việc mới hay khuôn được thú,
Khỏi quyền đã kẻo luỵ chưng danh.
Một bầu hoà biết lòng Nhan Tử,
Tám trận khôn hay chước Khổng Minh.
Sớm tối huống còn non nước cũ,
Mặc dầu thua được có ai tranh.

Chẳng khôn chẳng dại luống ương ương,
Chẳng dại người hoà lại chẳng thương.
Bến liễu mới dời thuyền chở nguyệt,
Gác vân còn chửa bút đeo hương.
Sách ngâm bạc dẫy mai trong tuyết,
Đối uống vàng đầy cúc thuở sương.
Văn đạt chẳng cầu, yên mấy phận,
Ba gian lều cỏ đất Nam Dương.

Chân mềm ngại bước dặm mây xanh,
Quê cũ tìm về cảnh cũ thanh.
Hương cách gác vân thu lạnh lạnh,
Thuyền kề bãi tuyết nguyệt chênh chênh.
Ơn tư là ấy yêu dường chúa,
Lỗi thác vì nơi luỵ bởi danh.
Bui có một niềm trung hiếu cũ,
Chẳng nằm thức dậy nẻo ba canh.

Một việc dừng hơn hết mọi âu,
Điền viên lánh, mặc ta dầu.
Sách ngâm song có mai và điểm,
Dời ngó rèm lồng nguyệt một câu.
Dưới công danh nhiều thác cả,
Trong ẩn dật có cơ mầu.
Đạo quân thân nhẫn dầu ai lỗi,
Hổ xanh xanh ở trốc đầu.

Rộng khơi ngại vượt bể triều quan,
Lui tới đòi thì miễn phận an.
Hé cửa đêm chờ hương quế lọt,
Quét hiên ngày lệ bóng hoa tan.
Đời dùng người có tài Y Phó,
Nhà ngặt ta bền đạo Khổng Nhan.
Kham hạ hiền xưa toan lẩn được,
Ngâm câu “danh lợi bất như nhàn”.

Yêu nhục nhiều phen vuỗn đã từng,
Lòng người sự thế thấy lâng lâng.
Trọng thì nên ngộ, nhàn thì dại,
Mất chẳng hề âu, được chẳng mừng.
An lạc một lều dầu thú,
Thái bình mười chước ngại dâng.
Nọ nào biết được lòng tri kỷ,
Vảng non tây nguyệt một vừng.

Thế tình khéo uốn vuỗn bằng câu,
Đòi phận mà yên há sở cầu.
Dịp còn theo tiên gác Phượng,
Rầy đà kết bạn sa âu.
Được thì xem áng công danh dễ,
Đến lý hay cơ tạo hoá mầu.
Kham hạ Trương Lương chẳng khứng ở,
Tìm tiên để nộp ấn phong hầu.

Lọ chi thành thị lo lâm tuyền,
Được thú thì hơn miễn phận yên.
Vụng bất tài nên kém bạn,
Già vô sự ấy là tiên.
Đồ thư bốn vách nhà làm của,
Phong nguyệt năm hồ khách nổi thuyền.
Cùng đạt xem hay này có mệnh,
Đòi cơ tạo hoá mặc tự nhiên.

Một yên một sách một con lều,
Túng kiết bao nhiêu mặc bấy nhiêu.
Giận cúc thu vàng nẩy lác,
Sân mai tuyết bạc che đều.
Có con mới biết ơn cha nặng,
Dừng lộc thì hay nghĩa chúa nhiều.
Ngẫm trong nhàn nào thửa được,
Đầy song hoa nở tiếng chim kêu.

Mấy phen lần bước dặm thanh vân,
Đeo lợi làm chi luống nhọc thân.
Nhớ chúa lòng còn đơn một tấc,
Âu thì tóc đã bạc mười phân.
Trì thanh cá lội in vừng nguyệt,
Cây tĩnh chim về rợp bóng xuân.
Dầu phải dầu chăng mặc thế,
Đắp tai biếng mảng sự vân vân.

Nối nghiệp tiên nhân đọc một kinh,
Chẳng nhờ bước tới áng công danh.
Cảm ơn nỡ phụ muôn đời chúa,
Phải luỵ vì nhân một chữ đinh.
Vũ tử lui tuy triệu dậy,
Bá Di lánh mấy nên thanh.
Xưa còn chép câu kinh đấy,
An phận thì chăng nhục đến mình.

Làm người biết mấy khôn sao,
Lỗi thác ai vì mấy chút nao.
Một phát khách chầy còn thấy hỏi,
Hai phen lần đến ắt chẳng chào.
Cửa thầy giá nhơn nhơn lạnh,
Lòng bạn trăng vặc vặc cao.
Lan huệ chẳng thơm thì chớ,
Nữa chi lại phải chốn tanh tao.

Đôi lần đã mấy áng phồn hoa,
Dầu ngặt ta vui đạo ta.
Ngắm xem mai hay tuyết đến,
Say thưởng nguyệt lệ thu qua.
Ba thân hương hoả nhờ ơn chúa,
Một nửa thi thư dõi nghiệp nhà.
Thấy bể triều quan đà ngại vượt,
Trong dòng phẳng có phong ba.

Dưng dưng sự thế biếng đôi tranh,
Dầu mặc chê khen mặc dữ lành.
Bói ở lần tìm non Tạ phó,
Xin về xưa cởi ấn ngu khanh.
Láng giềng một áng mây bạc,
Khách khứa hai ngàn núi xanh.
Có thuở biếng thăm bạn cũ,
Lòng thơ nghìn dặm nguyệt ba canh.

Rồi hóng mát thuở ngày trường,
Hoè lục đùn đùn tán rợp trương.
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,
Hồng liên trì đã tịn mùi hương.
Lao xao chợ cá làng ngư phủ,
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương.
Lẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,
Dân giàu đủ khắp đòi phương.

Đói khó thì làm việc ngửa tay,
Chớ làm sự lỗi quỷ thần hay.
Nhiều khôn chẳng đã bề khôn thật,
Trăm khéo nào qua chước khéo dầy.
Có của cho người nên rộng miệng,
Chẳng tham ở thế kẻo chau mày.
Bất nhân vô số nhà hào phú,
Của ấy nào ai từng được chầy.

Có xạ tự nhiên mùi ngát bay,
Lọ là đứng gió khong tay.
Bánh lành trong lá ghê người thấy,
Tiền tốt ngoài biên hoạ kẻ hay.
Mực thước thế gian dầu có phải,
Cân xưng thiên hạ lấy đâu tầy.
Nhiều khôn nhiều khó lo cho nhọc,
Chẳng đã khôn ngay khéo đầy.

Kẻ khôn thì bảo kẻ ngây phàm,
Nghề nghiệp cầm tay ở mới cam.
Nên thợ nên thầy vì có học,
No ăn no mặc bởi hay làm.
Một cơm hai việc nhiều người muốn,
Hai thớ ba giòng hoạ kẻ tham.
Thấy lợi thì làm cho phải nghĩa,
Mựa tây mặt khiến liễn lòng đam.

Tuy rằng bốn bể cũng anh tam,
Có kẻ hiền lành có kẻ phàm.
Nhiều thốt đã đành nhiều sự lỗi,
Ít ăn thì lại ít người làm.
Xa hoa ở rộng nên khó,
Tranh cạnh làm hờn bởi tham.
Kìa thừng nọ dai nào có đứt,
Người hơn ta thiệt mới hầu cam.

Lộc trời cho đã có ngần,
Tua hay thửa phận chớ còn nàn.
Giàu nhiều của con chẳng có,
Sống hơn người mệnh khó khăn.
Hễ kẻ danh thơm hahy được phúc,
Mấy người má đỏ phải nhiều lần.
Vắn dài được mất dầu thiên mệnh,
Chạy quấy làm chi cho nhọc nhằn.

Việc ngoài hương đảng chớ đôi co,
Thấy kẻ anh hùng hãy nhịn cho.
Nhợ nọ có dai nào có đứt,
Cây kia toan đắn lại toan đo.
Chớ đua huyết khí nên giận,
Làm mất lòng người những lo.
Hễ kẻ làm khôn thì phải khó,
Chẳng bằng vô sự ngáy pho pho.

Điền địa nhà ta thấy đầy,
Tạo tình những ước được lâu ngày.
Xuân qua còn bảo con đòi cuốc,
Hạ đến đà cho kẻ khác cày.
Cóc lại thửa làm càng tổn thiệt,
Ích chi còn muốn nhọc chân tay.
Ruộng nương là chủ, người là khách,
Đạo đức lành ấy của chầy.

Bầu bạn cùng nhau nghĩa chớ vong,
Người kia phú quý nỡ quên lòng.
Chặt vàng phải giữ (chữ) câu Hy Dịch,
Khinh bạc màng ngâm thơ Cốc phong.
Quân tử nước giao âu những lạt,
Hiền nhân rượu thết lọ là nồng.
Một phen bạn đến còn đằm thắm,
Hai bữa mừng nhau một mặt không.

Chép hết bao nhiêu sự thế ư?
Ai ai đã biết được hay chưa?
Kim ngân ấy của người cùng muốn,
Tửu sắc là nơi nghiệp há chừa.
Thế sự trai yêu thiếp mọn,
Nhân tình gái nhớ chồng xưa.
Chẳng say chẳng đắm là quân tử,
Người hiểm lòng thay! Hãy sá ngờ.

Chẳng hổ thân già tuổi tác hư,
Khó khăn dại dột mấy lừ khừ.
Toan cùng người mấy thì chẳng đủ,
Xử một ta nay ắt có dư.
Bạn tác rẻ roi đà phải chịu,
Anh em trách lóc ấy khôn từ.
Bằng rồng nọ ai phen kịp,
Mất thế cho nên mặt dại ngơ.

Được mất tuy nơi sự tiếc mừng,
Đạo ta thông biết hết lâng lâng.
Non cao Bạch Thạch nào đời chuyển,
Nước cả Hoàng Hà há thuở nhưng.
Thiên hạ dõi truyền lăng có thước,
Thế gian bảo rặng thóc toan thưng.
Nhọc nhằn ai chớ còn than thở,
Ăn có dừng thì việc có dừng.

Để truyền kia miệng kiếp nào mòn,
Cao thấp cùng xem việc mất còn.
Thương cá thác vì câu uốn lưỡi,
Ngẫm ruồi nào chết bát mồ hòn.
Già mặc số trời đất,
Giàu ai qua vợ con.
Quân tử thánh hiền lòng tựa nước,
Càng già (tra) càng ngẫm của bùi ngon.

Trí qua mười mới khả rằng nên,
Ỷ lấy nho, hầu đấng hiền.
Đao bút phải dùng tài đã vẹn,
Chỉ thư nấy chép việc càng chuyên.
Vệ nam mãi mãi ra tay thước,
Điện bắc đà đà yên phận tiên.
Nghiệp Tiêu Hà làm khá kịp,
Xưa nay cũng một sử xanh truyền.

Tài đức thì cho lại có nhân,
Tài thì kém đức một hai phần.
Thờ cha lấy thảo làm phép,
Dập chúa hằng ngay liễn cần.
Đọc sách thì thông đòi nghĩa sách,
Đem dân mựa nữa mất lòng dân.
Của chăng phải đạo làm chi nữa,
Muôn kiếp nào hề luỵ đến thân.

Này lời nhắn bảo khách bàng quan,
Khôn phải lo lường, dại được an.
Nọ kẻ tranh hùng nên Hán tướng,
Kìa ai từ tước ẩn Thương sơn.
Già tôi thép cho nên mẻ,
Bể nồi hương bởi ngã bàn.
Khuyên kẻ trượng phu sinh ở thế,
Hãy đường bất nghĩa, chớ loàn đoan.

Của nhiều sinh chẳng được con hiền,
Ngày tháng công hư chực lỗ tiền.
Tua sá khoan khoan lòng thế ít,
Chớ màng cậy cậy khiến lòng phiền.
Gia tài ấy xem nhàn hạ,
Đạo đức này khá chính chuyên.
Say rượu no cơm cùng ấm áo,
Trên đời chỉn ấy khách là tiên.

Khó khăn phú quý học Tô Tần,
Miễn đức hơn tài được mấy phân.
Khoe tiết lầu lầu nơi học đạo,
Ở triều khăn khắn chữ trung cần.
Cõi phàm tục khỏi lòng phàm tục,
Học thánh nhân chuyên thói thánh nhân.
Trung hiếu cương thường lòng đỏ,
Tự nhiên lọn nghiệp ba thân.

Trung cần há nỡ trễ cân xưng,
Nhiều thánh hiền xưa kiếp đã từng.
Tước thưởng càng ngày càng dõi chịu,
Ân thăng một bước một phen mừng.
Ở đài các giữ (chữ) lòng Bao Chửng,
Nhậm tướng khanh gìn thói Nguỵ Chưng.
Khóng khảy thái bình đời thịnh trị,
Nghiệp khai sáng tựa nghiệp trung hưng.

Xem tiếp : Nguyễn Trãi với tập thơ Quốc âm thi tập – Tập thơ Nôm bất hủ P3

Related posts

Nhà thơ Lê Đình Cánh cùng những trang thơ nổi tiếng

admin

Nhà Thơ Vũ Quần Phương Cùng Tập Thơ Chỗ Ấy Sóng Phần 2

admin

Tuyển tập thơ Bích Khê (Lê Quang Lương) hay để đời (Phần 1)

admin

Leave a Comment