Nhà Thơ Nổi Tiếng

Nhà thơ Hoàng Cầm cùng tập thơ Kiều Loan hay nhất mọi thời đại phần 2

Hoàng Cầm là nhà thơ có vị trí thật khiêm nhường nhưng cũng thật đặc biệt trong làng thơ Việt Nam hiện đại. Ông sở hữu cho mình một cõi thơ riêng bằng phong cách thơ độc đáo mà không phải ai cũng dễ dàng cảm nhận được. Ông sở hữu một loạt những thi phẩm giá trị được người đời ca tụng mạnh mẽ. Hãy cùng nhau đón xem và cảm nhận hết những nét độc đáo trong thơ ông nhé!

Nội Dung

(Đội trưởng dẫn Kiều Loan vào – Nàng đến giữa công đường,
nhìn thấy Vũ tướng quân bỗng đau đớn, ứa nước mắt.
Vũ Tướng quân quay đi, cố giấu nét nét mặt quằn quại.
Một lát, Kiều Loan cười chua chát)
Kiều Loan:
Các quan đem tôi đi lăng trì tùng xẻo
Hơn bắt tôi nhìn sự thực hiển nhiên
Đến chỗ này mới thật là địa ngục
Lửa vạc dầu đây! Ma quỷ kề bên!
Tham tri:
Tôi cởi trói cho cô nương – thân phận yếu mềm
Đã quằn quại từ đêm kia trong ngục tối!
Thị lang:
Cô gái kia! Quỳ đây, nghe xử tội.
Kiều Loan (chợt mơ màng):
Tôi chỉ biết quỳ trước mặt chồng
Ngày xưa… khi nắng rạng thư phòng
Khuyên chàng cố học làm danh tướng
Cái nghĩa phu thế chớ bận lòng
Hôm nay, sắp sửa đầu rơi xuống
Tôi nhớ chồng tôi cách núi sông
Vậy cũng xin quỳ nghe vó ngựa
Chúc mừng danh tướng đã nên công.
Chàng ngồi chót vót trên đầu núi
Thiếp đứng chân trời mỏi mắt trông
Cũng muốn theo gương người hoá đá
Nhưng chồng tôi có cũng bằng không!
(Nàng quỳ ngay trước mặt Vũ tướng quân. Vũ cố quay đi nữa,
rắn mặt lại. Kiều Loan khóc nức nở)
Thị lang:
Khóc làm chi, loài nhi nữ yếu hèn
Sao cũng đi quấy rối cuộc bình yên
Làm nao núng lòng dân bằng tiếng hát?
Kiều Loan (quay phắt lại, giọng đanh thép):
Tôi hát chơi cái thế tình đen bạc
(Chỉ vào mặt Thị lang)
Chồng ngồi kia mà chẳng dám nhìn nhau!
Chàng nên khanh tướng công hầu
Vợ hiền yêu quý sắp mất đầu vì nỗi nhớ thương.
(Lê đến chân Hình Tham tri)
Có lẽ nào chàng mất hết tình thương
Hay núi lở đã lấp đầy bể ái?
Thị lang:
Cô ả này thật vô cùng rồ dại
Chết đến nơi còn rỡn cả công đường.
Kiều Loan:
Từ độ ấy khóm trúc vàng ngơ ngẩn
đuổi tôi đi cùng mấy lá tà dương
Qua kinh đô tôi tìm chồng chẳng thấy
Xin các quan cho biết: chồng tôi đâu?
(Im lặng)
Tôi chênh vênh một bóng đèn run rẩy
Đợi người xưa, sương gió bạc phơ đầu
Rồi một buổi tôi cài rêu cửa lạnh
Bỏ vườn hoang nằm khóc bóng trăng mờ
Bỏ đàn chim trong căn nhà hiu quạnh
Xé lụa vàng, tôi đập nát guồng tơ.
Tôi thành điên, tôi bồng bềnh giọng hát
Tôi tìm chồng qua non nước đìu hiu
(Chỉ Vũ tướng quân)
Chồng tôi đây! Cớ sao chàng đổi khác?
(Chỉ Hiệu úy)
Chồng tôi đây! Đôi mắt đẫm thương yêu.
(Chỉ hai Hình quan)
Chồng tôi kia! Này hai ông Tư mã
nhìn kỹ xem: con bướm chết bên đường…
Tham tri:
Chồng nàng đâu mà than thở nhớ thương?
Kiều Loan:
Chồng tôi mất từ năm tôi mười tám
Mùa xuân ấy bắt đầu mùa ảm đạm
Tham lợi danh chàng chết đuối quê người
Đêm nào có bóng sao rơi
Khăn tang lệch nửa đời người thê lương
Tiễn đưa chú lái lên đường
Đi buôn áo mũ bán phường đảo điên.
Hiệu uý:
Người mê loạn, hồn không nguôi đau đớn
Máu trôi quanh mái tóc xoã ưu phiền.
Tham tri:
Quan Hiệu uý để yên nàng kể lể
Lời chua chát nhưng nghẹn đầy ngấn lệ
Nói hết đi, mở rộng tấm lòng đau.
Kiều Loan:
Chàng hãy trông: áo rách như mây sầu
Thu đã sang, lòng thiếp đây tê buốt
Chàng ở lầu cao, rèm nhung óng chuốt
Kín màu xanh dương liễu khoá tin hương
Áo giai nhân phủ ấm giấc mơ màng
Ánh đèn hoa lả lơi trên đệm gối
Người vợ cũ lang thang trong bóng tối
Mảnh áo đơn nào phủ kín thân gầy?
Không có ăn, rời rụng cả chân tay
Một buổi sớm buông xuôi hồn đau xót
Vào giữa lúc chàng bừng cơn mộng ngọt
Hé môi cười trong ánh sáng thần tiên
Thị lang (với Vũ tướng quân):
Thưa tướng quân, người ấy thật không điên
Đem nước mắt làm say lòng dân chúng
Vào tới đây say lòng người trí dũng
Nên coi chừng nước mắt của người điên.
Hiệu uý:
Người cầm quân không phải bọn ngu hèn
Để giọt lệ mỹ nhân mờ chí khí
(Với Kiều Loan)
Chồng cô nương chắc hẳn là dũng sĩ?
Chàng ở đâu sao có thể lỗi nguyền?
Kiều Loan:
Tôi đặt tên chồng tôi là: phản bội!
Thị lang:
Chính nhà ngươi mới thật là có tội
Gần điện vua, ca tụng kẻ anh hùng
Nói những lời như nhắc nhở núi sông
Nhớ lại cái vinh quang người đã chết
Đã là giặc, và nhất là đã giết
Ba đời vua, để dựng cái ngai vàng.
Hiệu uý:
Thưa đại nhân, nàng là người đau khổ
Vì nhớ thương, hờn giận đã thành điên.
Thị lang:
Việc quốc gia, tôi chẳng dám làm phiền
Quan Hiệu úy.
Hiệu uý:
Xin đại nhân xét kỹ
Mất tình yêu nàng thành ra mất trí
Chứ một người như cánh bướm mong manh
Theo làm sao cơn gió lốc đao binh?
Thị lang:
Quan Hiệu uý vì đêm qua bận ngủ
Không được nghe bao nhiêu lời càn rỡ
thốt ra từ cái miệng đẹp như hoa
Lời cung khai còn đó, mực chưa nhoà
(Giơ tập hồ sơ nhìn Vũ tướng quân)
Chồng cô ả, thưa ngài, là ngụy đế
Tiếc người cũ, vương phi đem giọt lệ
làm xôn xao tấc dạ bọn dân ngu.
Tham tri:
Nàng phải chăng người sùng ái của ông vua
đã xây dựng nghiệp Tây Sơn thuở trước?
Kiều Loan:
Tôi nói thế mà có người tin được
Ôi thương ôi! chính trị đất Nam Hà
Nghĩ đáng buồn cho đứa trẻ lên ba!
Hiệu uý:
Thưa đại nhân, người điên không lẽ phải
Tôi dám quyết nàng là người vô tội
Chỉ biết sầu khi nguyệt chếch phòng khuê
Mà người yêu đi mãi không quay về.
Thị lang:
Người đã biết những gì về bọn giặc
ở Nghệ An ? Lũ tàn quân đất Bắc
còn những ai đầu rắn nối thân lươn?
Và hiện giờ lẩn lút ở Trường Sơn
Ngoài việc cướp còn làm gì thêm nữa?
Kiều Loan:
Tôi chỉ biết ngày xưa ông Nguyễn Huệ
Đẹp nguy nga như vầng nhật lên ngôi
Cao tít mù như sao sáng giữa trời
Đức vô lượng như nắng tràn bốn cõi
Tham tri:
Sở Bá Vương coi nhỏ đất Giang Đông
Suốt một đời nên sự nghiệp gì không?
Kiều Loan:
Dẹp hết ba mươi vạn quân hùm sói
Thì ngài khởi công dựng một toà lầu
Tường vàng, ngói đỏ, cột ngọc, rèm châu
Êm ái nhung tơ, huy hoàng gấm vóc
Vườn ruộng mênh mông, lúa ngô đã mọc
Quân sĩ anh hùng gìn giữ nước non
Đó là nơi ngài chăm chỉ đèn hương
Cầu trời phật cho toà lầu chóng lớn
Nhưng có lẽ đấng cao xanh chẳng muốn
để Quang Trung tài đoạt cả mệnh trời
Ông ấy đánh ghen một trận tơi bời
Bốn mươi tuổi, đấng anh hùng đoản mệnh.
Thị lang (bĩu môi):
Và vương phi một sớm hoá người điên
Đi bốn phương cổ vũ bọn ngu hèn!
Tham tri:
Đến bây giờ lầu ấy có còn không?
Hay đã phai hình ảnh khắc trong lòng?
Kiều Loan:
Tít phương xa có một con hổ xám
Chỉ lăm le đến làm chủ toà lầu
Nên vợ chồng tôi bàn định cùng nhau
Sẽ nối trí anh hùng xây dựng lại
Chồng tôi đi tưởng đem tài vĩ đại
chữa toà lầu và đắp mãi lên cao
Tôi ở nhà, một sớm thấy xôn xao
Tiếng làng nước thì thào: “giang sơn đổi chủ”.
Tham tri:
Giang sơn đổi chủ, cô nương có mừng không?
Kiều Loan:
Ô kìa! Chồng tôi xênh xang áo mũ
Gối lên gươm, nằm ngủ trên lầu mây
Lầu của ai mới dựng nước non này?
Thấy khác trước, tôi ngậm ngùi vô hạn
Chao ôi! Vợ chồng ta mười năm ly tán
Thiếp ngẩn ngơ qua những cảnh điêu tàn
Chàng ở nhờ lầu của giặc thênh thang…
Tham tri:
Truyền quân sĩ đưa nàng về chỗ cũ
Cấm các ngươi không được dùng hình cụ
Cho đau thêm chiếc lá đã xa cành.
Kiều Loan:
Đưa đi đâu? – Tôi đứng giữa triều đình
Đòi trả lại chồng tôi
(Nàng lay vai Vũ tướng quân)
Ông Vũ Văn Giỏi
Ông đấy ư? Ông là người có tội
Đã cướp chồng tôi!
(Nàng hét lên, ngã ngất xuống, mọi người xúm lại)
Thị lang (lay gọi Kiều Loan):
Tỉnh lại! Phu nhân!
Đó, vợ của ngài, Chưởng vệ Vũ tướng quân
Ngài đã nhận ra chưa?
Vũ tướng quân (run run)
Tôi không biết!
Thị lang:
Ngài không biết? – Nhưng chúa công hiểu hết
Vợ của ngài làm loạn ở kinh thành
Ngài cầm vạn quân tinh nhuệ của triều đình
Liệu có phải là nội công, ngoại kích?
Vũ tướng quân (đỏ mặt, rút gươm)
Đừng vu cáo! Thanh gươm này vô địch
Có thể soi vào gan ruột đại nhân!
Hiệu uý:
Trông người điên đã tỉnh lại dần dần
Mắt hé

Thị lang:
Tội hai người xét kỹ đã rành rành
Ông lão già lố lăng và ngạo mạn
Là thủ lĩnh những bọn người phiến loạn
Về kinh đô phá rối cuộc trị an
Đi khắp nơi ca tụng bóng phai tàn
của tên giặc đã giết bao vua chúa
Đầu phản nghịch cần phải bêu giữa chợ
Cho bọn người khinh bạc đến soi gương
Cho lòng dân yên tĩnh đạo cương thường.
Tham tri:
Còn cô gái?
Thi lang:
Cứ cho rằng là hậu phi ngụy đế
Là Bao Tự, Tây Thi, là Đát Kỷ
Làm siêu lòng dũng sĩ với văn nhân
Đem thi ca tình cảm chuốc lòng dân
Hòng gây lại cơ đồ cho Tây ngụy
Nếu để mặc người điên đi vạn lý
Hát nghêu ngao và cười khóc nỉ non
Thì có ngày nghiêng đổ dãy Trường Sơn
Thành Phú Xuân ngất chín từng khói lửa
Bọn giặc trời lại tung hoành phen nữa
Lũ văn nhân thì bìu díu thê nhi
Vét bạc vàng, sợ chết rủ nhau đi
Bọn dũng sĩ hoài thân trong tử địa
Uổng một đời không làm nên đại nghĩa
Mà chết vì nước mắt của người điên.
Tham tri:
Xin đại nhân chớ vội vàng lên án
Cửa miệng dân gian không thiếu những điều
Ca tụng Tây Sơn, oán trách đương triều
Dân oán hận phải tìm ra gốc ngọn
Đây là Kiệt Trụ hay đây là Nghiêu Thuấn?
Chúa thượng nhân từ sao oán hận không nguôi?
Như lão già say mượn chén u hoài
Thân hàn sĩ chán vương hầu đế bá
Sự phẫn uất chất đầy sân nho giả
Gót hung đồ đạp đổ nếp tiền nhân
Nhà Tây Sơn dấy nghiệp được lòng dân
Lão tin tưởng vào đường gươm vạn thắng
Lòng trung liệt những chờ mưa đợi nắng
Mong non sông vươn tới cõi cao xa
Đang ước mơ, chợt Nguyễn Huệ thăng hà
Thôi đổ sụp bao nhiêu tầng oanh liệt!
Nghiệp Tây Sơn đang dần dần tự diệt
Mượn bầu men, lão nhớ thuở oai hùng
Và gieo sầu lên cây cỏ non sông
Lão thương tiếc phải đâu là có tội?
Dù khinh mạn, nhưng cuộc đời biến đổi
Ai mà không chua chát ở tròng lòng?
Chứ cánh tay người tuổi tác cô trung
chỉ đủ sức nghiêng một bình rượu quý!
Hiệu uý:
Quan Tham tri nói thực là chí lý
Lão là người mượn rượu để u hoài
Ta cứ mời ông lão rong chơi
Dạo khắp cảnh nước non thanh tú
Mặc người say bạn bầu cùng thơ phú
Rượu đầy vò, nước mắt sẽ dần vơi
Và bóng hình Nguyễn Huệ sẽ tàn rơi
Theo ánh nắng mùa xuân nhoà kỷ niệm
Tham tri:
Còn cô gái, ôi dung nhan kiều diễm
Chót lầm sinh vào thế kỷ loạn ly
Nên có người dám ví với Tây Thi
và Đát Kỷ, làm nghiêng thành đổ nước
Hồn cao rộng, trời mây nào sánh được
Trao tay chồng gươm báu giữ giang san
Nơi quê hương chờ nhạc ngựa khải hoàn
Bao nhiêu năm không bay về cánh nhạn
Bên gối mộng đã vắng người bầu bạn
Lại thấy ngày tàn tạ của Tây Sơn
Một sớm kia, nàng ngơ ngẩn lên đường
Tìm người cũ, hồn điên vì tưởng nhớ
Mộng vĩ đại thuở vinh quang rực rỡ
Đã tàn theo bóng dáng của người yêu
Đến kinh đô một buổi nắng nghiêng chiều
Lòng tê tái rung lên thành tiếng hát
Người đau khổ, toàn thân là nước mắt
Mà bảo rằng làm loạn, ôi oan khiên !
Kết tội người điên, phép nước cũng thành điên!
Hiệu uý:
Quan Tham tri nói thực là chí lý
Kết tội người điên quả là mất trí
Hồn cô đơn lồng lộng gió thương yêu
Lòng thiết tha hoài cảm biết bao nhiêu
Theo thiển ý, cứ mời cô gái nọ
đến một cảnh trời hoa xuân đương nở
Và tìm cho cô gái người chồng xưa
Thì hết điên và hết nói vẩn vơ.
Tham tri:
Còn đến chuyện xui dân hèn khởi loạn
Bằng nhan sắc, bằng thi ca tình cảm
Thì hai người không lấy được lòng tin
của muôn dân đang muốn hưởng bình yên
Hai người ấy là kỳ hoa dị thảo
Mọc đường xa từ một chiều gió bão
Ta nhìn chơi không chắc đã hại gì
Ai đành tâm đem lưỡi kiếm giết đi?
Sự chém giết đã não lòng dân nước
Ai trị dân làm cho dân khiếp nhược
Và oán hờn, là thế tất suy vong
Từ đầu năm giặc giã nổi như ong
Vì khắp xứ treo rất nhiều thủ cấp
Các doanh trấn còn xây thêm ngục thất
Thì bọn người vào ngục cứ tăng thêm
Sự trị an cần giữ lấy uy nghiêm
Nhưng nguyên lý vẫn chỉ là nhân đức
Vua đã vậy, còn những người quyền chức
Cứ ra oai, thích chém lắm đầu người
Thì đầu mình, rụng cũng nhanh thôi.
Thị lang:
Quan tham tri đừng dài lời ngụy biện
Đầu không rụng, không hết mầm chinh chiến
(Hạ giọng nói với Vũ tướng quân)
Về việc này, theo tôn ý tướng quân
Có nên dùng hình luật chém tội nhân
Hay thả hổ về khu rừng đất Bắc?
Vũ tướng quân (bàng hoàng):
Cái án này… tuỳ hai ngài cân nhắc…
Thị lang:
Không thể nào tha thứ bọn giặc già
Vẫn rắp tâm làm rối loạn sơn hà
Tôi xuống án: Giết hai người do thám!
Sáng sớm mai sẽ đem ra xử trảm
(Với Tham tri)
Mời đại nhân phê vào án tử hình.
Tham tri:
Tôi dám đâu đem tài hèn trí thiển
Xét tội người cùng với bậc cao minh!
Tôi không phê, ngài xử lấy một mình!
Thị lang:
Quan Tham tri chạy theo đà của giặc!
Tham tri (giận dữ):
Ngài dám bảo tôi đây là phản trắc?
Thị lang:
Vì xưa kia ông ăn lộc Tây Sơn
Khi chúa công chiếm lại thành Quy Nhơn
Ông khúm núm ra hàng cầu áo mũ
Hiệu uý:
Không ai khen những người đem chuyện cũ
Khích bác nhau! Tôi biết quan Tham tri
Về theo chúa công lúc đó, chỉ vì
Có tài năng mong giúp dân dựng nước
Quyết không phải vì tranh giành quyền tước
Như đại nhân!
Thị lang:
Quan Hiệu uý thanh niên
Nên trọng người mái tóc trắng pha đen
Hiệu uý:
Tuổi tuy ít nhưng trí này chẳng hẹp
Tay đại nhân là bàn tay gang thép
Trí đại nhân là một vũng ao tù
Thị lang:
Tôi không ngờ quan Hiệu uý cũng về hùa
Với lũ giặc!
Hiệu uý (tuốt kiếm):
Đừng nói lời càn rỡ
Gươm danh dự không bao giờ tha thứ!
(Định chém Thị lang)
Vũ tướng quân (ngăn lại):
Nơi công đường không phải chỗ làm càn
Không trị mình sao trị nổi giang san?
(Với hai Hình quan)
Cái án này khó tìm ra manh mối
Vì sự thực hai người đều vô tội
Họ lang thang hát nhảm ở bên đường
Như ông già mượn chén nói ngông cuồng
Còn thiếu phụ chỉ là người mơ mộng
Nhưng dù sao, họ đã là những bóng
Những lá vàng rớt lại của Tây Sơn
Ta há nên giữ mãi mối căm hờn
Với những kẻ chỉ hão huyền thương tiếc?
Thị lang:
Đó là giặc, tôi tưởng cần phải giết?
Vũ tướng quân:
Lẽ cố nhiên, nhưng chớ giết vội vàng
Ta chưa tìm ra tang chứng rõ ràng.
Thị lang (cười gằn):
Vừa lúc trước đây, tướng quân đanh thép
Mà bây giờ… hừ… gớm thay sắc đẹp!
Hiệu uý:
Nào ai mê vì sắc đẹp nghiêng trời
Nhưng phải tha, vì vô tội, cả hai người!
Thị lang:
Họ còn sống, họ còn gây chinh chiến
Vũ tướng quân:
Hai đại nhân chỉ nên vào nội điện
Để đem trình Ngự lãm xét việc này
Thị lang:
Vâng, phải trình Ngự lãm, thế cũng hay
Lệnh Chúa thượng sẽ không ai bàn cãi
Chỉ ngài Ngự mới tìm ra lẽ phải
Chúng tôi xin vâng ý Vũ tướng quân
(Quay sang Tham tri)
Ta phải vào bệ kiến. Mời đại nhân !
Tham tri:
Lẽ dĩ nhiên tôi phải vào trong nội
Lấy gươm sắc nhà vua ra xử tội
Ai dèm pha sỉ nhục một hàng thần ?
Thị lang (ngạo nghễ):
Tôi xin chờ gươm sắc của đại nhân.
(Thị lang giơ tay. Tham tri đỏ mặt đi nhanh.
Thị lang vênh váo nhìn Hiệu uý rồi đi sau)
Hạ màn

Hiệu uý (theo gót Vũ tướng quân đi quanh quẩn):
Thưa chủ tướng…
Vũ tướng quân (như nói một mình):
Đầu rơi ngoài bãi chợ
Thật không ngờ… Từ nay, vòng rực rỡ
của vinh quang, sắp khép lại rồi chăng?
Hiệu uý:
Cả trời Nam còn rợp bóng chim bằng
Thưa chủ tướng, ngài có chi phiền muộn?
(Im lặng)
Hay chủ tướng nhớ những mùa bay lượn
Gió muôn trùng cao tiếng gọi muôn phương?
Nhưng đêm nay đoàn binh sĩ lên đường
ánh lửa trại nồng reo lời tạm biệt
Tiểu tướng nghe: miền Hoá Châu xanh biếc
Khói lửa còn mù mịt các thành xa
ánh gươm đao còn múa bóng trăng tà
Trong các giải rừng sâu miền Nghệ Tĩnh
Biết bao giờ cho bốn phương bình định
Ngựa tướng quân đều nhịp trên cầu son?
Vũ tướng quân:
Ta thoáng trông như có bóng hoàng hôn
Đã đổ xuống – Lòng ta run với nắng
Hiệu uý:
Giặc chưa hết, gánh binh nhung còn nặng
Nhưng bao nhiêu mộng đẹp lúc đăng trình
Vũ tướng quân:
Đường tuy đẹp, lòng ta không đẹp nữa
Từ sớm nay, xứ ưu phiền mở cửa
Đón ta vào thương khóc những ngày xưa
Hiệu uý:
Tâm sự chi u uất tự bao giờ?
Xin chủ tướng ngỏ xem lòng ảo não
Vũ tướng quân:
Từ sớm nay lòng ta cuồng gió bão
Hỡi Kiều Loan! Ta mất hẳn em rồi…!
Hiệu uý:
Thưa chủ tướng, Kiều Loan, người điên dại
Người tuyệt sắc từ phương xa mới lại
Ngập công đường nước mắt nhớ người xưa?
Nàng là ai?
Vũ tướng quân:
Nàng chính là vợ cũ
của một người đã yên bề áo mũ
Đã phụ tình và lỗi hẹn ngày xanh
Hiệu uý:
Thật không ngờ…
Vũ tướng quân:
Mười năm trời cũ còn xanh biếc
Càng xa xôi, càng thắm lòng yêu
Sớm nay vọng lại thời thơ trẻ
Tha thướt trời xa dáng lệ kiều
Bạn với gươm đao khuây nỗi nhớ
Mình ta khóc sớm lại thương chiều…
Hiệu uý:
Không có lẽ phu nhân mà phải chết?
Ai dám xé một bông hoa diễm tuyệt?
Vì tướng quân là trung nghĩa của triều đình
Cầm trong tay hơn một vạn hùng binh.
Vũ tướng quân:
Ta nhớ ngày xưa, thân còn đói rét
Cha mẹ qua đời, họ hàng bỏ hết
Ngày đi chăn ngựa, tối ngủ chuồng trâu
Miếng cơm, manh áo, nghìn vạn lo âu
Nàng từ chối bạc vàng và lụa gấm
Trao tình yêu cho áo rách hồn đơn.
Hiệu uý:
Chí phu nhân cao đẹp như Trường Sơn
Thua số mệnh, thật muôn đời vô lý!
Vũ tướng quân:
Tình ngày xưa thật bao la như bể
Ta ốm đau ròng rã một năm dài
Thuốc như rừng mà son sắt không phai
Tay vuốt ve, nàng ru say con bệnh
Dò hơi thở để cầu xin số mệnh
Dựng thân tơ nâng đỡ xác hao mòn
Mải nuôi chồng, quên nhan sắc héo hon.
Hiệu uý:
Thưa chủ tướng, vì sao mà cách biệt
Những mười năm, để bây giờ đợi chết?
Vũ tướng quân:
Nàng khuyên ta chăm học đạo thánh hiền
Thâu đất trời bao nghĩa lý vô biên
Những sớm lạnh hoặc những chiều mưa gió
Ta luyện tập theo năm thầy dạy võ
Và đèn khuya làm bạn với binh thư…
Bờ Châu Giang, dòng nước trắng tiễn đưa
Ta lên đường trong mùa xuân tươi sáng
Thề với nàng sẽ tôn phù Quang Toản
Vua Quang Trung lúc ấy mới băng hà.
Hiệu uý:
Nhưng vì sao rồi tướng quân đổi chí
Để ngày nay tan tác mộng ngày xanh?
Vũ tướng quân:
Một ngày kia sắp đến Phượng hoàng thành
Ta bỗng gặp một ông già ẩn sĩ
Núi La Sơn – Thấy ta về với Ngụy
Già vạch ngay tội trạng Bùi Đắc Tuyên
Cùng bọn gian thần điên đảo lộng quyền
Đã xoá sạch danh thơm và nghĩa lớn
Của Hoàng đế Quang Trung.
Ta hiểu ra bèn đổi hướng
đi vào Nam gặp chúa Nguyễn, theo hầu…
Trải mười năm thành nghĩa nặng ơn sâu.
Hiệu uý:
Để ngày nay đã thành người danh tướng
Ngài quên ngay đức hy sinh vô lượng
Để vợ hiền “không áo kín thân gầy
Không có ăn, rời rụng cả chân tay”
Để bây giờ phu nhân nằm ngục tối
Trong việc này, ai là người có tội?
Vũ tướng quân:
Nhưng Kiều Loan, theo công luận triều đình
Lại là người phiến loạn ở kinh thành
Thực khó nghĩ, vì ta còn danh dự
Còn uy quyền, còn tiếng tăm khắp xứ.
Hiệu uý:
Dù thế nào nên nhớ trước, nghĩ sau
Uy quyền kia, danh tiếng ấy, nhờ đâu?
Người quân tử không bao giờ bội nghĩa.
Vũ tướng quân:
Phải, ta không đáng sống trong vòng thiên địa
Nếu một mai trên bãi chợ kinh thành
Máu viết lời oán hận lên trời xanh.
Hiệu uý:
Muốn trọn đạo, phải tìm ra mưu kế
Đưa phu nhân về cuộc đời đẹp đẽ.

(Thị lang ở trong cung vua ra)
Thị lang:
Kìa tướng quân đang tư lự điều chi
Quá ngọ rồi, chưa sửa soạn ra đi?
Hiệu uý:
Ngài vào cung, và thù hằn quân giặc
Chắc đã tâu vua, xin chém đầu nữ tặc
và ông già?
Thị lang:
Ngài đoán quả không sai
Đấng chí tôn y án chém hai người.
Vũ tướng quân:
Vua y án?
Thị lang:
Vâng, Chúa công giận lắm
Có quở trách chúng tôi sao để chậm
Không tâu ngay còn xét xử lôi thôi
(Đưa bản án cho hai người xem)
Ngày Nhâm Thìn, ngày Chúa thượng lên ngôi
Sẽ lấy máu hai người ra tế miếu.
Hiệu uý:
Ba ngày nữa
Thị lang:
Vâng, tuỳ ngài định liệu
Còn đủ giờ bênh vực cho người điên
Hiệu uý (tuốt kiếm):
Đừng nói càn (Vũ tướng quân ngăn lại)
Người tóc trắng pha đen
Nói không nghĩ!
Vũ tướng quân:
Mời ngài về tư thất
Hiệu uý (vẫn tức giận):
Một tay ông làm rụng bao thủ cấp
Bao hồn oan xoã tóc đã hàm oan!
Thị lang (cười nhạt):
Ấy thế mà thiên hạ vẫn chưa an
Quan Hiệu uý còn nằm sương ngủ tuyết!
Hiệu uý:
Làm hình quan, vụ nào ông cũng giết
Để leo thang danh vọng chóng hơn người!
Vũ tướng quân:
Mời đại nhân về tư thất nghỉ ngơi
Bọn chúng ta đều một lòng vì nước.
(Thị lang đi vài bước, ngập ngừng)
Thị lang:
Tôi có chuyện riêng muốn ngỏ cùng tướng quân
Vũ tướng quân:
Xin cứ nói
(Thị lang nhìn Hiệu uý, chần chừ)
Hiệu uý:
Vâng, tôi xin lánh mặt
Để quan lớn được yên tâm bày đặt
những trò hề!
(Đi nhanh về phía bên phải)
Thị lang:
Quan Hiệu uý thật hàm hồ…
Vũ tướng quân:
Người tuổi còn non không biết mưu cơ
Lòng thẳng dạ ngay, đại nhân đừng chấp.

Thị lang:
Chắc tướng quân đang buồn phiền…

Vũ tướng quân:
Quả thật
Tôi đang buồn – Buồn cái cảnh triều đình

Thị lang (cười nụ):
Hay đang lo vì một mối ẩn tình?
Đáng lo thật! Vì… “chuyện quan Chưởng vệ”
“Vũ tướng quân, có một người vợ trẻ”
“Người vợ điên nổi loạn chống triều đình”
Đã thành chuyện dân gian huyên náo kinh thành
Người ta nói: Vũ tướng quân làm phản!
Người lại đồn: cô gái ấy hại chồng!
Có kẻ suy ra: kinh đô sắp loạn
Vội bế vợ bồng con đi lánh nạn
Chuyện đồn đi như bão nổi ngoài sông!

Vũ tướng quân:
Lạ gì dân gian có một đồn mười
Thật đáng khen ai khéo dệt nên lời
Chuyện tơ tóc thổi lên thành quả núi!

Thị lang:
Tôi đã vào cung, nghe lời xét tội
Của Chúa công! – thật phúc cho thần dân
Kẻ tầm thường như tôi, mắt bé nhìn gần
Đâu sánh được đức trông xa thấy rộng
Của nhà vua!

Vũ tướng quân:
Chúa thượng phán làm sao?

Thị lang:
Ngài ngự truyền: “Phải dẹp tắt chuyện rêu rao
Lời đồn đại! – Phải giữ gìn phẩm giá
Cho tướng quân!” Ngài ngự truyền… (Lạ quá!
Tôi theo hầu Chúa công từ lúc thiếu niên
Nay mới biết ngài là một bậc vua hiền
Một đấng chí nhân! Đại hiền! Đại đức!)
Ngài ngự truyền: Cụ già là thầy học
(Ai làm quan cũng phải trọng ông thầy)
Tội theo Tây Sơn đáng phải chém ngay
Nhưng đã có tài giảng về đạo lý
Đào tạo học trò trở nên dũng sĩ
Biết cách phò vua, nên được khoan dung

Vũ tướng quân:
Thế rồi sao? – Còn thiếu phụ điên cuồng?

Thị lang:
Ngài ngự truyền: đây gái đẹp Tây Sơn
về nhũng nhiễu kinh thành. Nhưng xét kỹ
Quan Chưởng vệ mười năm xa vợ quý
Biết gác tình riêng, thờ chúa, lập công to
Vợ trung thần, dù có tội, cũng tha cho!
Ngài ngự lại truyền: Thượng thư bộ Lễ
(ối chao ôi! Thật là ơn trời bể)
Sắc phong ngay bà Ngũ phẩm phu nhân!
Lại ban cho vàng mười nén, bạc trăm cân!
(Kém lời hứa của tôi có một trật)

Vũ tướng quân:
Còn án tử hình kia?

Thị lang:
Là chiểu theo hình luật
Chúa ngự phê cho phải phép triều đình
Rồi sẽ tha – Nhưng muốn được công minh
Cần phải có chữ tướng quân nhận thực
Vào bản hồ sơ

Vũ tướng quân:
Sao ông lừa lọc bắt tôi nhận liều?

Thị lang (đủng đỉnh):
Tuỳ ý tướng quân!
Vì Chúa công muốn tỏ rõ lòng nhân
Cho thiên hạ: đấy lão già ngạo mạn
Và thiếu phụ cầm đầu quân nổi loạn
Tội bằng trời, đáng lẽ phải trôi sông
Thiên tử không quên danh tướng lập nhiều công
Cần giả nghĩa thầy trò, trọn tình vợ cũ
Nên đã tha rồi! – Lời đồn đi khắp xứ
Đức độ Chúa công sẽ cảm hoá lòng người!

Vũ tướng quân:
Tôi không hiểu!

Thị lang (mở nắp hộp son, đã sẵn bút nghiên, nâng hai tay
Trước mặt Vũ tướng quân)
Giấy mực sẵn đây rồi!
Ngài chỉ ký tên vào là ổn chuyện
Cửa ngục mở: lão già, tuỳ sở nguyện
Muốn làm quan, chúa thượng sẽ bao dong
Muốn về quê, chúa thượng cũng vui lòng
cho ngựa cưỡi với lương ăn đầy đủ.

Vũ tướng quân (ngần ngừ):
Không có lẽ! …

Thị lang:
Còn toà lầu bến Ngự
Lầu Phượng hoa, chờ đón rước phu nhân

Vũ tướng quân (lo lắng):
Chúa phán gì về tôi không nhỉ?

Thị lang:
Tướng quân?
Đấng chí tôn không mảy may ngờ vực
Ai dám ngờ oan một người trung thực
Một tướng tài trăm trận thắng Tây Sơn!

Vũ tướng quân (băn khoăn):
Nhận vào đây? – Được oán hay được ơn?
Thầy? – Không phải! Vợ? – Không! – Đâu vợ cũ?
Thôi! Đại nhân đừng làm phiền tôi nữa!

Thị lang (càng ngọt ngào):
Chúa biết cả rồi! Biết tiếng thở dài
Biết nét mặt buồn, biết giọt lệ rơi
Trên ngực áo người tướng tài trẻ tuổi
Chúa biết hết! – Tướng quân đừng nói dối
Chúa rủ lòng thương, ngài nhận là xong!
Chén rượu lầu Hoa, tình nghĩa vợ chồng
Say ân ái, bõ mười năm cách biệt

Vũ tướng quân:
Chúa thượng ngờ oan. Tôi chỉ còn cái chết
Tỏ lòng trung –

Thị lang:
Tôi là chỗ tình thân
Nói điều hơn lẽ thiệt với tướng quân
Nội hôm nay, nếu ngài không chịu nhận
Thì sáng sớm mai… xin đừng ân hận
Người đẹp kia: bốn ngựa xé tan tành
Lão già kia: thủ cấp treo mặt thành
Còn tướng quân, chắc đâu toàn tính mệnh
Chúa thượng nhân từ, ngài còn khủng khỉnh
Lừa dối vua, man trá với triều đình
Không mất đầu, thì… hàng vạn tinh binh
Chức Chưởng vệ chắc chi còn giữ được!
Thì sao tỏ rõ tấm lòng vì nước
Lận đận thờ vua? – Ngài nghĩ lại xem
Tôi nói đã nhiều… chẳng ép nài thêm.

Vũ tướng quân (bối rối):
Vâng, đại nhân để hồ sơ lại đó
Tôi nghĩ chiều nay!… Ôi chao!… Ai rõ?
Ai chép hồ sơ?…

Thị lang:
Rất hợp ý tôi
Giờ Dậu chiều nay, ngài sẽ trả lời
Vì nửa đêm, ngài đã đi ra trận
(Đưa tập hồ sơ cho Vũ tướng quân)
Hồ sơ đây! chỉ một lời chứng nhận
Là xong xuôi! Xin tạm biệt tướng quân!
(Vào)

Hoàng Cầm là một trong những nhà thơ đóng góp không nhỏ vào sự nghiệp phát triển thơ ca Việt Nam. Ở ông luôn có sự độc đáo và mới mẻ, thu hút nhiều sự thích thú từ bạn đọc. Hãy theo dõi bài viết này của chúng tôi và cảm nhận sự đặc sắc trong thơ ông ngay bây giờ nhé! Cảm ơn các bạn đã theo dõi bài viết này của chúng tôi!

Xem Thêm: Nhà thơ Hoàng Cầm cùng tập thơ Kiều Loan hay nhất mọi thời đại phần 1

Related posts

Tập thơ Điều Thật hay nhất mọi thời đại của Thu Nguyệt phần cuối

admin

Nhà thơ Thu Nguyệt và trọn bộ tập thơ Ngộ ấn tượng nhất phần 2

admin

Tế Hanh cùng những thi phẩm dịch của József Attila phần 1

admin

Leave a Comment