Nhà Thơ Nổi Tiếng

Nhà thơ La Fontaine và trọn bộ trang thơ ấn tượng nhất phần 12

La Fontaine sở hữu một số lượng thơ lớn và đặc sắc thu hút nhiều sự quan tâm của dư luận và độc giả. Ông có một phong cách thơ đầy ấn tượng bởi lối thơ cổ đại hiếm có trên thế giới. mặc dù là một nhà thơ xuất thân từ tiểu quý tộc nhưng ông lại rất phóng khoáng và giàu tình thương với những số phận nghèo khó. Cùng nhau chiêm nghiệm về những ý nghĩa sâu sắc trong trang thơ của ông ngay bây giờ nhé!

Nội Dung

Un jour, sur ses longs pieds, allait, je ne sais où,
Le héron au long bec emmanché d’un long cou:
Il côtoyait une rivière.
L’onde était transparente ainsi qu’aux plus beaux jours;
Ma commère la carpe y faisait mille tours,
Avec le brochet son compère.
Le héron en eût fait aisément son profit:
Tous approchaient du bord, l’oiseau n’avait qu’à prendre.
Mais il crut mieux faire d’attendre
Qu’il eût un peu plus d’appétit:
Il vivait de régime et mangeait à ses heures.
Après quelques moments, l’appétit vint: l’oiseau,
S’approchant du bord, vit sur l’eau
Des tanches qui sortaient du fond de ces demeures.
Le mets ne lui plut pas; il s’attendait à mieux,
Et montrait un goût dédaigneux,
Comme le rat du bon Horace.
«Moi, des tanches! dit-il; moi, héron, que je fasse
Une si pauvre chère? Et pour qui me prend-on?»
La tanche rebutée, il trouva du goujon.
«Du goujon! c’est bien là le dîner d’un héron!
J’ouvrirais pour si peu le bec! aux dieux ne plaise!»
Il l’ouvrit pour bien moins: tout alla de façon
Qu’il ne vit plus aucun poisson.
La faim le prit: il fut tout heureux et tout aise
De rencontrer un limaçon.
Les plus accommodants, ce sont les plus habiles;
On hasarde de perdre en voulant trop gagner.
Gardez-vous de rien dédaigner,
Surtout quand vous avez à peu près votre compte.
Bien des gens y sont pris. Ce n’est pas aux hérons
Que je parle; écoutez, humains, un autre conte:
Vous verrez que chez vous j’ai puisé ces leçons.

Dịch

Mỏ dài tra cán cổ dài
Chú Cò trên bộ chân choài khẳng khiu
Đi đâu thất thểu, lều nghều
Cò rò dạo bước một chiều chơi rong
Nó đi theo rẻo bờ sông
Dòng êm, sóng lặng, nước trong, đẹp trời
Mẹ đĩ Chép nhởn nhơ bơi
Cùng cha cu Trắm lượn chơi nghìn vòng
Sát bờ cá lội thong dong
Cò ta chỉ đớp là xong, khó gì
Nhưng Cò còn khảnh, chờ khi
Ngấu hơn tí nữa khai tì ngon ơ
Kiêng khem, ăn uống đúng giờ
Lát sau Cò đói, dạo bờ ngó trông
Cá Rô từ dưới đáy sông
Ngoi lên mặt nước lượn vòng xung xinh
Chú Cò ngủng nghỉnh làm thinh
Chờ mồi thật thích khẩu mình mới xơi
Lắc đầu chê hẩm chê hôi:
“Cò đây, đừng tưởng như ai mà rằng!
Cá Rô xứng miệng ta chăng?
Đồ tồi ấy chẳng thèm ăn tanh mồm”
Chê Rô, Cò gặp Bống còm:
“Bống ư? Đâu phải bữa tươm nhà Cò!
Trời ơi, trời có thấu cho
Thứ này há mỏ nuốt vô sao đành”
Còn là há mỏ suông tình
Cá đi mất hết, tép ranh chẳng còn
Bấy giờ đói đã nổi cơn
Cò thôi đỏng đảnh, mừng rơn sướng rền
May còn vớ được con Sên
Khó tính làm chi, việc chẳng nên
Xuề xoà dễ dãi mới ăn tiền
Tham vơ món bở thường khi hỏng
Mất cả chì chài trớn mắt lên
Chê ỏng chê eo, đừng quá quắt
Nhiều no ít đủ chẳng lo phiền

Certaine Fille, un peu trop fière
Prétendait trouver un mari
Jeune, bien fait, et beau, d’agréable manière,
Point froid et point jaloux; notez ces deux points-ci.
Cette Fille voulait aussi
Qu’il eût du bien, de la naissance,
De l’esprit, enfin tout; mais qui peut tout avoir?
Le destin se montra soigneux de la pourvoir:
Il vint des partis d’importance.
La Belle les trouva trop chétifs de moitié:
Quoi moi? quoi ces gens-là? l’on radote, je pense.
A moi les proposer! hélas ils font pitié.
Voyez un peu la belle espèce!
L’un n’avait en l’esprit nulle délicatesse;
L’autre avait le nez fait de cette façon-là;
C’était ceci, c’était cela,
C’était tout; car les précieuses
Font dessus tout les dédaigneuses.
Après les bons partis les médiocres gens
Vinrent se mettre sur les rangs.
Elle de se moquer. Ah vraiment, je suis bonne
De leur ouvrir la porte: ils pensent que je suis
Fort en peine de ma personne.
Grâce à Dieu je passe les nuits
Sans chagrin, quoique en solitude.
La Belle se sut gré de tous ces sentiments.
L’âge la fit déchoir; adieu tous les amants.
Un an se passe et deux avec inquiétude.
Le chagrin vient ensuite: elle sent chaque jour
Déloger quelques Ris, quelques Jeux, puis l’Amour;
Puis ses traits choquer et déplaire;
Puis cent sortes de fards. Ses soins ne purent faire
Qu’elle échappât au Temps, cet insigne larron:
Les ruines d’une maison
Se peuvent réparer: que n’est cet avantage
Pour les ruines du visage!
Sa préciosité changea lors de langage.
Son miroir lui disait: Prenez vite un mari.
Je ne sais quel désir le lui disait aussi;
Le désir peut loger chez une précieuse.
Celle-ci fit un choix qu’on n’aurait jamais cru,
Se trouvant à la fin tout aise et tout heureuse
De rencontrer un malotru.

Dịch

Cô ả nọ làm cao khí quá
Định kén chồng được gã giỏi trai
Có mầu có vẻ có tài
Chẳng ghen cũng chẳng như ai lạnh lùng
Lại còn muốn con rồng cháu phượng
Của rõ nhiều sung sướng nhất đời
Tài hoa học thức tuyệt vời
Trăm hay muốn cả. Nhưng ai tốt đều?
Ông trời nọ cũng chiều nết khó
Lại xui nên vô số kẻ dòm
Nhưng ai cô cũng chê om:
Gớm người thế ấy dám dòm đến ta!
Anh kia đã chê là cục kệch
Anh này thì mũi lệch khó coi
Thế này thế nọ lôi thôi
Thôi thì chẳng thiếu chi lời bẻ bai
Ngẫm gái hợm ra ai cũng vậy
Ai cũng rằng: – Đồ bây ra gì?
Đám hay hết thảy đuổi đi
Rồi ra đến bọn xằng xì đưa tin
Môi cô ả tớn lên càng dữ
Biết bọn này mở cửa làm chi?
Quân này thường dễ có khi
Tưởng ta ế muộn, lỡ thì chi đây!
Nhỡ trời phó gái này can đảm
Dẫu riêng chăn cũng cám tấm lòng
Khăng khăng một mực nằm không
Cái già sồng sộc thoắt trông thấy gần
Thì chẳng mãnh bước chân vào cửa
Một vài năm thêm nữa mới phiền
Một ngày thấy một hết duyên
Tóc xanh môi thắm tự nhiên phai dần
Đem gương ngắm lần thần thấy kém
Lấy phấn son tô điểm mãi vào
Thì ra duyên hết từ bao
Tháng ngày đã cướp lúc nào không hay
Nhà kia đổ còn tay thợ chữa
Má này nheo biết sửa làm sao?
Bấy giờ cái hợm bớt cao
Hỏi gương, gương mắng: Làm sao chưa chồng?
Hỏi đến lòng thì lòng cũng giục:
Hợm đến đâu cũng lúc ngứa nghề
Ả ta tẩn mẩn tê mê
Thì ra tính cũ hay chê bớt rồi
Vớ ngay một bác đồ tồi

On cherche les Rieurs; et moi je les évite.
Cet art veut sur tout autre un suprême mérite.
Dieu ne créa que pour les sots
Les méchants diseurs de bons mots.
J’en vais peut-être en une Fable
Introduire un; peut-être aussi
Que quelqu’un trouvera que j’aurai réussi.
Un Rieur était à la table
D’un Financier; et n’avait en son coin
Que de petits poissons: tous les gros étaient loin.
Il prend donc les menus, puis leur parle à l’oreille,
Et puis il feint à la pareille,
D’écouter leur réponse. On demeura surpris:
Cela suspendit les esprits.
Le Rieur alors d’un ton sage
Dit qu’il craignait qu’un sien ami
Pour les grandes Indes parti,
N’eût depuis un an fait naufrage.
Il s’en informait donc à ce menu fretin:
Mais tous lui répondaient qu’ils n’étaient pas d’un âge
A savoir au vrai son destin;
Les gros en sauraient davantage.
N’en puis-je donc, Messieurs, un gros interroger?
De dire si la compagnie
Prit goût à la plaisanterie,
J’en doute; mais enfin, il les sut engager
A lui servir d’un monstre assez vieux pour lui dire
Tous les noms des chercheurs de mondes inconnus
Qui n’en étaient pas revenus,
Et que depuis cent ans sous l’abîme avaient vus
Les anciens du vaste empire.

Dịch

Ai tìm người hóm, tôi xa
Nghề kia đòi hỏi tài hoa bậc thầy
Tài nói nhạt những câu hay
Để cho kẻ thộn vỗ tay cả cười
Tôi đưa vào chuyện một người
Chắc rằng có kẻ bảo tôi cũng tài
Anh hóm nọ được mời dự tiệc
Nhà một ông tài phiệt trứ danh
Góc mình chỉ có cá ranh
Những trang cá sộp bày rành bàn xa
Gắp mấy chú anh vờ thỏ thẻ
Nói vào mang, vờ để tai nghe
Cá con đáp lại lời gì
Khách ăn dừng bữa nhất chi tò mò
Anh hóm mới từ từ giải đáp
Rằng bạn anh năm trước xuống tàu
Tính sang Châu Mỹ làm giàu
Bặt tin e đắm biển sâu chẳng còn
Nên nhằm lũ cá con anh hỏi
Tất cả bầy đều nói: “tuổi non
Biết đâu chuyện xảy năm tròn
Ông ấy mất còn, xin hỏi cá to”
Khách ăn có hoan hô mùi vị
Món đùa kia? tôi hãy còn nghi
Nhưng mà họ bảo nô tì
Hiến anh con cá to thì rõ to
Cá kia sống đủ lâu để biết
Tất cả tên người vượt đại dương
Đi tìm đất lạ bốn phương
Mà không trở lại quê hương bao giờ
Trăm năm nay có bao người
Vùi thây trong cõi biển trời mênh mông!

Dans un chemin montant, sablonneux, malaisé,
Et de tous les côtés au Soleil exposé,
Six forts chevaux tiraient un Coche.
Femmes, Moine, vieillards, tout était descendu.
L’attelage suait , soufflait , était rendu.
Une Mouche survient, et des chevaux s’approche ;
Prétend les animer par son bourdonnement ;
Pique l’un, pique l’autre, et pense à tout moment
Qu’elle fait aller la machine,
S’assied sur le timon, sur le nez du Cocher ;
Aussi-tôt que le char chemine,
Et qu’elle voit les gens marcher,
Elle s’en attribue uniquement la gloire ;
Va, vient, fait l’empressée ; il semble que ce soit
Un Sergent de bataille allant en chaque endroit
Faire avancer ses gens, et hâter la victoire.
La Mouche en ce commun besoin
Se plaint qu’elle agit seule, et qu’elle a tout le soin ;
Qu’aucun n’aide aux chevaux à se tirer d’affaire.
Le Moine disait son Bréviaire ;
Il prenait bien son temps ! une femme chantait ;
C’était bien de chansons qu’alors il s’agissait !
Dame Mouche s’en va chanter à leurs oreilles,
Et fait cent sottises pareilles.
Après bien du travail le Coche arrive au haut.
Respirons maintenant, dit la Mouche aussi-tôt :
J’ai tant fait que nos gens sont enfin dans la plaine.
Çà, Messieurs les Chevaux, payez-moi de ma peine.
Ainsi certaines gens, faisant les empressés,
S’introduisent dans les affaires.
Ils font partout les nécessaires ;
Et, partout importuns devraient être chassés.

Dịch

Trời nóng bức như thiêu, như đốt,
Ðường dốc nâng cơn sốt thêm cao,
Cỗ xe hì hục lao chao,
Cố tiến từng bước, biết bao nhọc nhằn.
Sáu con ngựa mồ hôi như tắm,
Sôi bọt mồm, chơn dẫm cát trơn.
Nặng nề từng bước chập chờn,
Kéo xe nhưng chẳng tiến hơn chút nào.
Dừng xe lại, chủ mời khách xuống,
Tạm nghỉ chơn bờ ruộng bên lề
Nam phụ lão ấu đề huề,
Lại thêm tu sĩ cạnh kề thiếu nhi.
Một con mòng từ đâu bay đến,
Trước đầu ngựa ra lệnh oai phong,
Truyền mau nổ lực gắng công,
Kéo nhanh xe trống khỏi lòng cát sâu.
Nó chỉ huy như người đoàn trưởng,
Giữa trận tiền phạt thưởng ba quân,
Khi thì chích mũi, chích lưng,
Khi thì gào thét tưng bừng bên tai.
Cả đoàn ngựa mệt gần ngất xỉu,
Thêm bực mình dáng điệu lố lăng
Của con sâu bọ ruồi lằn
Tác oai tác phước cho rằng mình hay.
Một chặp lâu xe lên khỏi dốc,
Khách reo mừng, được ngọc không bằng.
Hành trình sắp sửa tiến thăng,
Hân hoan ngắm cảnh đồng bằng xanh tươi
Nhưng bỗng chốc chú mòng lố dạng,
Trước đầu ngựa, ngăn cản chận đường,
Ðòi phải thanh toán tiền lương
Công chú khó nhọc tìm phương giải nàn.
“Các người sao quá ư vô nghĩa,
Chẳng chút nào đếm xỉa công ta!
Ðược việc, ngảnh mặt, lánh xa,
Không tìm tự hỏi, đâu là người ân?
Nếu ta không hét gầm đúng mức,
Giục đoàn ngựa toàn lực gắng công,
Lúc thưởng, lúc phạt oai phong,
Xe làm sao thoát khỏi vòng khó khăn?
Ðành rằng xe đi nhờ ngựa kéo,
Nhưng nếu ta không khéo chỉ huy,
Mãi mãi xe vẫn nằm ỳ,
Ðến khi đêm tối lấy gì thoát thân?
Thử nhìn khách cả đoàn đông đảo,
Có mấy ai xông xáo như ta?
Chỉ thích dạo mát, hát ca,
Mải chờ thụ hưởng hơn là siêng năng.
Kìa nhà sư cứ ngồi niệm Phật,
Toán thanh niên hợp nhất xướng ca,
Cụ già ngủ gật ngủ gà,
Thiếu nhi thơ thẩn hái hoa vệ đường.
Thôi hãy sớm ơn đền nghĩa trả,
Luật công bình Nhân Quả phân minh.
Ta đòi chớ chẳng nài xin
Tiền công ta đã tận tình cứu nguy.”
Trong xã hội đôi khi nhìn thấy
Một số người chẳng mấy khiêm nhường,
Không ngừng phổ diễn, biểu dương,
Cho mình quan trọng, mọi đường đều hay.
Họ tự hào “Ta là bậc nhất!
Vắng Ta e quả đất ngừng quay.
Nay còn sông núi cỏ cây,
Ấy công Ta đã đắp xây bấy chầy!”

Perrette, sur sa tête ayant un Pot au lait
Bien posé sur un coussinet,
Prétendait arriver sans encombre à la ville.
Légère et court vêtue elle allait à grands pas;
Ayant mis ce jour-là pour être plus agile
Cotillon simple, et souliers plats.
Notre Laitière ainsi troussée
Comptait déjà dans sa pensée
Tout le prix de son lait, en employait l’argent,
Achetait un cent d’œufs, faisait triple couvée;
La chose allait à bien par son soin diligent.
Il m’est, disait-elle, facile
D’élever des poulets autour de ma maison:
Le Renard sera bien habile,
S’il ne m’en laisse assez pour avoir un cochon.
Le porc à s’engraisser coûtera peu de son;
Il était quand je l’eus de grosseur raisonnable;
J’aurai le revendant de l’argent bel et bon;
Et qui m’empêchera de mettre en notre étable,
Vu le prix dont il est, une vache et son veau,
Que je verrai sauter au milieu du troupeau?
Perrette là-dessus saute aussi, transportée.
Le lait tombe; adieu veau, vache, cochon, couvée;
La Dame de ces biens, quittant d’un oeil marri
Sa fortune ainsi répandue,
Va s’excuser à son mari
En grand danger d’être battue.
Le récit en farce en fut fait;
On l’appela le Pot au lait.
Quel esprit ne bat la campagne?
Qui ne fait châteaux en Espagne?
Picrochole, Pyrrhus, la Laitière, enfin tous,
Autant les sages que les fous?
Chacun songe en veillant, il n’est rien de plus doux:
Une flatteuse erreur emporte alors nos âmes:
Tout le bien du monde est à nous,
Tous les honneurs, toutes les femmes.
Quand je suis seul, je fais au plus brave un défi;
Je m’écarte, je vais détrôner le Sophi;
On m’élit Roi, mon peuple m’aime;
Les diadèmes vont sur ma tête pleuvant:
Quelque accident fait-il que je rentre en moi-même;
Je suis gros Jean comme devant.

Dịch

Cô Bê-rét đi mang liễn sữa
Kê đệm bông để giữa đỉnh đầu
Chắc rằng kẻ chợ xa đâu
Nhẹ nhàng thoăn thoắt chẳng âu ngại gì
Chân hôm ấy thì đi dép một
Váy xắn cao ton tót bước nhanh
Gọn gàng mà lại thêm xinh
Vừa đi vừa tính phân minh từng đồng
Sữa bấy nhiêu, bán xong ngần ấy
Trứng một trăm mua lấy về nhà
Ấp đều có khó chi mà
Khéo ra mấy chốc đàn gà đầy sân
Cáo nọ dẫu mưu thần chước giỏi
Có tha đi cũng lỏi mươi con
Bán đi mua một lợn non
Ta cho ăn cám béo tròn như trâu
Đem ra chợ bầy đâu chẳng đắt
Bán lợn đi, lại dắt bò về
Thừa tiền thêm một con bê
Để cho nó nhẩy bốn bề mà coi
Cô Bê-rét nói rồi cũng nhẩy
Sữa đổ nhào hết thẩy còn chi
Nào bò, nào lợn, nào bê
Nào gà, nào trứng cùng đi đằng trời
Cô tôi thấy của rơi lênh láng
Lủi thủi về chịu mắng cùng chồng
Đành rằng mấy gậy là cùng
Để câu chuyện sữa kể dong khắp làng
Nghĩ lắm kẻ hoang đường cũng lạ
Ước xa xôi hay quá phận mình
Tề-Mân, Sở-Mục hùng danh
Ví cùng Bê-rét rành rành cũng như
Rõ mở mắt trơ trơ mà mộng
Chuyện mơ hồ mà động đến lòng
Của đời hết thảy thu xong
Trường thành đắp nổi, A-phòng về ta
Khi ta một mình ta thách hổ
Vua nước Tàu đạp đổ như chơi
Vận may lại thuận lòng người
Muôn dân mến phục, ngai Trời ngồi trên
Sịch một tiếng tỉnh liền giấc mộng
Té vẫn mình bố Ngỗng xưa nay

Deux coqs vivaient en paix: une poule survint,
Et voilà la guerre allumée.
Amour, tu perdis Troie ; et c’est de toi que vint
Cette querelle envenimée
Où du sang des Dieux même on vit le Xanthe teint.
Longtemps entre nos coqs le combat se maintint.
Le bruit s’en répandit par tout le voisinage,
La gent qui porte crête au spectacle accourut.
Plus d’une Hélène au beau plumage
Fut le prix du vainqueur. Le vaincu disparut:
Il alla se cacher au fond de sa retraite,
Pleura sa gloire et ses amours,
Ses amours qu’un rival, tout fier de sa défaite
Possédait à ses yeux. Il voyait tous les jours
Cet objet rallumer sa haine et son courage;
Il aiguisait son bec, battait l’air et ses flancs,
Et, s’exerçant contre les vents,
S’armait d’une jalouse rage.
Il n’en eut pas besoin. Son vainqueur sur les toits
S’alla percher, et chanter sa victoire.
Un vautour entendit sa voix :
Adieu les amours et la gloire;
Tout cet orgueil périt sous l’ongle du vautour
Enfin, par un fatal retour
Son rival autour de la poule
S’en revint faire le coquet :
Je laisse à penser quel caquet;
Car il eut des femmes en foule.
La fortune se plaît à faire de ces coups;
Tout vainqueur insolent à sa perte travaille.
Défions-nous du Sort, et prenons garde à nous
Après le gain d’une bataille.

Dịch

Xưa đôi gà trống sống hoà bình
Vì mái mà nên cuộc chiến tình
Ái tình, ngươi để thành Tơroa mất
Vì người mà ròng rã đao binh
Máu người và cả máu thần linh
Đỏ lòm dòng nước cuộn chân thành
Còn đây dai dẳng và nức tiếng
Tình địch đôi gà trống nổi danh
Họ hàng mào đỏ tới bâu quanh
Bao chị Hêlen đẹp hết mình
Đem làm phần thưởng trao người thắng
Kẻ bại chuồn êm sống lặng thinh
Lẻ bóng khóc than chuyện nhục vinh
Nỗi đau bị mất cả khối tình
Mà tên cướp đoạt luôn vênh váo
Ve vuốt ngang nhiên trước mặt mình
Nung nấu tâm can mối hận tình
Thù sâu dũng khí lại hồi sinh
Chàng mài sắc mỏ, vàng đôi cánh
Tung gió ngày đêm luyện sức mình
Chàng không cần đánh gã cướp tình
Hắn đã bay lên dáng hợm mình
Tót đậu nóc nhà và cao giọng
Gáy liên hồi ca ngợi quang vinh
Kiêu ngạo gà kia tự diệt mình
Vĩnh biệt quang vinh, vĩnh biệt tình
Kền kền nghe tiếng sà ngay xuống
Vuốt quặp gà ngông chết cực hình
Kẻ bại trời cho được lại tình
Được thêm nhiều ả đến là xinh
Làm duyên làm dáng, thao thao gáy
Bù lại bao ngày phải nín thinh

La Mort ne surprend point le sage :
Il est toujours prêt à partir,
S’étant su lui-même avertir
Du temps où l’on se doit résoudre à ce passage.
Ce temps, hélas ! embrasse tous les temps :
Qu’on le partage en jours, en heures, en moments,
Il n’en est point qu’il ne comprenne
Dans le fatal tribut ; tous sont de son domaine ;
Et le premier instant où les enfants des rois
Ouvrent les yeux à la lumière,
Est celui qui vient quelquefois
Fermer pour toujours leur paupière.
Défendez-vous par la grandeur ;
Alléguez la beauté, la vertu, la jeunesse ;
La mort ravit tout sans pudeur :
Un jour le monde entier accroîtra sa richesse.
Il n’est rien de moins ignoré ;
Et puisqu’il faut que je le die,
Rien où l’on soit moins préparé.
Un Mourant, qui comptait plus de cent ans de vie,
Se plaignait à la Mort que précipitamment
Elle le contraignait de partir tout à l’heure,
Sans qu’il eût fait son testament,
Sans l’avertir au moins. « Est-il juste qu’on meure
Au pied levé ? dit-il ; attendez quelque peu ;
Ma femme ne veut pas que je parte sans elle ;
Il me reste à pourvoir un arrière-neveu ;
Souffrez qu’à mon logis j’ajoute encore une aile.
Que vous êtes pressante, ô déesse cruelle !
– Vieillard, lui dit la mort, je ne t’ai point surpris ;
Tu te plains sans raison de mon impatience :
Eh ! n’as-tu pas cent ans ? Trouve-moi dans Paris
Deux mortels aussi vieux ; trouve-m’en dix en France.
Je devais, ce dis-tu, te donner quelque avis
Qui te disposât à la chose :
J’aurais trouvé ton testament tout fait,
Ton petit-fils pourvu, ton bâtiment parfait.
Ne te donna-t-on pas des avis, quand la cause
Du marcher et du mouvement,
Quand les esprits, le sentiment,
Quand tout faillit en toi ? Plus de goût, plus d’ouïe ;
Toute chose pour toi semble être évanouie ;
Pour toi l’astre du jour prend des soins superflus :
Tu regrettes des biens qui ne te touchent plus.
Je t’ai fait voir tes camarades,
Ou morts, ou mourants, ou malades ;
Qu’est-ce que tout cela, qu’un avertissement ?
Allons, vieillard, et sans réplique.
Il n’importe à la république
Que tu fasses ton testament. »
La Mort avait raison : je voudrais qu’à cet âge
On sortît de la vie ainsi que d’un banquet,
Remerciant son hôte ; et qu’on fit son paquet :
Car de combien peut-on retarder le voyage ?
Tu murmures, vieillard ; vois ces jeunes mourir,
Vois-les marcher, vois-les courir
À des morts, il est vrai, glorieuses et belles,
Mais sûres cependant, et quelquefois cruelles.
J’ai beau te le crier ; mon zèle est indiscret :
Le plus semblable aux morts meurt le plus à regret.

Dịch

Người hiền triết luôn luôn tính trước
Không đợi chờ khi cất bước ra đi
Sang cõi Trung giới Âm ty
Mà không chuẩn bị kiên trì từ lâu
Lúc nào cũng sẵn sàng khăn gói,
Ðể ra đi, bỏ thói khóc than:
Tử thần xuất hiện hiên ngang
Khó bề đoán trước, chặn đàng cản ngăn
Con Vua Chúa lắm khi mở mắt
Chỉ chào đời mấy khắc rồi đi
Của cải, quyền lực ích gì?
Tài cao, sắc đetp cũng đi như thường!
Tánh tàn nhẫn, Tử Thần cương quyết,
Lòng lạnh lùng, giả điếc, vô tâm,
Bất ngờ xuất hiện, âm thầm
Tàn phá, giết chóc, gieo mầm đau thương
Một bô lão đã ngoài trăm tuổi
Nghe ngặt mình thui thủi yếu dần,
Xin được gặp mặt Tử Thần,
Mong được cầu khẩn điều gần, điều xa.
Bóng Tử Thần bỗng đâu xuất hiện,
Hỏi: “Lão Ông có chuyện chi cầu?
Gặp ta không dễ gì đâu,
Mau mau bày tỏ ngỏ hầu sớm đi.”
Ông lão đáp: “Sao Ngài hối hả,
Vì cớ nào bươn bả, vội vàng,
Ðem người về Chốn Diêm-Ðàng,
Không cho hay trước, chẳng màng báo nguy!”
“Ngài biết không: tôi còn nhiều việc,
Thiếu thì giờ giải quyết khó an,
Vì quá bận rộn đa đoan,
Không thể thu xếp vẹn toàn được đâu.”
“Kìa chúc ngôn tôi chưa kịp viết,
Ðể thu xếp mọi việc về lâu,
Vợ tôi cứ mãi nguyện cầu
Phu thê một lúc về chầu Diêm Vương
Tôi hãy còn một thân cháu nhỏ,
Cần có tôi giúp nó an bài,
Ðịa vị, nhà cửa, trong ngoài,
Lập xong gia thất, từ rày mới yên.
Nhà đang ở cần thêm một mái,
Ðể trẻ con rộng rãi chơi rong,
Ðầu xuân cất, cuối hè xong,
Chừng đó hy vọng thong dong phần nào.
Ðây chỉ mới một vài công việc
Sau hãy còn có biết bao nhiêu,
Mong Ngài thông cảm ít nhiều,
Giúp tôi giải quyết mọi điều an vui.”
Ngươi quá tham, Tử Thần đáp lại,
“Ta đã nhiều dễ dãi với ngươi,
Ðếm xem trọn xứ mấy người
Bách niên giai lão, như ngươi bây giờ?
Ngươi trách ta sao không báo trước,
Một ít lâu khi rước người đi
Quả thật ngươi kém nghĩ suy,
Ðể kịp đón nhận những gì ta ban.
Khi thấy mình mắt lờ, tóc bạc,
Thêm răng long, thân xác ốm mòn,
Tay chơn run rẩy, héo hon,
Ðó lời cảnh cáo chẳng còn bao lâu.
Ta đã cho ngươi nhìn tận mặt
Nhiều bạn bè bệnh ngặt ra đi,
Ðó là cảnh cáo chớ gì?
Tại sao không hiểu, cứ ghì lấy thân?
Nay ngươi sống có chi lý thú?
Ăn không ngon, giấc ngủ khó khăn,
Ðứng đi, cười nói nhọc nhằn,
Tình cảm, lý trí phải chăng yếu dần?
Ngươi tiếc rẻ những điều vô ích,
Ðối với người chẳng thích, hết tươi,
Ðâu còn tuổi trẻ đôi mươi,
Còn đâu phong độ, vui cười như xưa?
Thôi hãy mau lập tờ di chúc,
Ðể tránh điều lục đục sau này,
Xong rồi, trực chỉ phương tây
Xuôi tay, rũ áo, lướt mây, băng ngàn!”
Quả thật vị Tử Thần hữu lý,
Ðến tuổi già hoan hỉ ra đi,
Thiết tha, luyến ái làm chi?
Thân xác tàn tạ, còn gì mà ham?
Hãy ra đi như tàn bữa tiệc,
Miệng tươi cười cáo biệt chủ gia,
Cám ơn chủ đã hào hoa,
Thâm tình thết đãi, Vương gia chẳng bì.
Hãy dọn mình sẵn sáng từ trước,
Tránh ngỡ ngàn khi bước ra đi,
Ðừng trì huỡn, ích gì?
Kéo dài thêm được mấy thì, nghĩ xem?
Ðừng thì thầm, ớ nầy quý Cụ,
Hãy nhìn xem những lũ thanh niên,
Nhìn chúng hăng hái, hồn nhiên,
Thi đua liều chết, lặng yên tươi cười!
Nhưng chúng đã chết vì tử tiết,
Chết hiên ngang, oanh liệt, phi thường,
Hào hùng, nhưng rất đau thương,
Chết vì chánh nghĩa, nêu gương muôn đời.
Thôi, nói mãi càng làm người ghét,
Hãy bình tâm xem xét thật gần,
Người càng giống hệt Tử Thần
Lại càng sợ chết hơn phần thanh niên.

Un Lion décrépit, goutteux, n’en pouvant plus,
Voulait que l’on trouvât remède à la vieillesse :
Alléguer l’impossible aux Rois, c’est un abus.
Celui-ci parmi chaque espèce
Manda des Médecins ; il en est de tous arts :
Médecins au Lion viennent de toutes parts ;
De tous côtés lui vient des donneurs de recettes.
Dans les visites qui sont faites,
Le Renard se dispense, et se tient clos et coi.
Le Loup en fait sa cour, daube au coucher du Roi
Son camarade absent ; le Prince tout à l’heure
Veut qu’on aille enfumer Renard dans sa demeure,
Qu’on le fasse venir. Il vient, est présenté ;
Et, sachant que le Loup lui faisait cette affaire :
Je crains, Sire, dit-il, qu’un rapport peu sincère,
Ne m’ait à mépris imputé
D’avoir différé cet hommage ;
Mais j’étais en pèlerinage ;
Et m’acquittais d’un voeu fait pour votre santé.
Même j’ai vu dans mon voyage
Gens experts et savants ; leur ai dit la langueur
Dont votre Majesté craint à bon droit la suite.
Vous ne manquez que de chaleur :
Le long âge en vous l’a détruite :
D’un Loup écorché vif appliquez-vous la peau
Toute chaude et toute fumante ;
Le secret sans doute en est beau
Pour la nature défaillante.
Messire Loup vous servira,
S’il vous plaît, de robe de chambre.
Le Roi goûte cet avis-là :
On écorche, on taille, on démembre
Messire Loup. Le Monarque en soupa,
Et de sa peau s’enveloppa ;
Messieurs les courtisans, cessez de vous détruire :
Faites si vous pouvez votre cour sans vous nuire.
Le mal se rend chez vous au quadruple du bien.
Les daubeurs ont leur tour d’une ou d’autre manière :
Vous êtes dans une carrière
Où l’on ne se pardon

Dịch

Vua sư tử đã già cốc đế
Hết hơi rồi còn bị đau xương
Rõ ràng ý muốn quốc vương
Muôn dân nỗ lực tìm phương thuốc thần
Ngăn chặn tuổi già đang lấn tới
Ai bảo không là tội dối vua
Loài nào có các danh sư
Đều phải tiến cử không trừ một ai
Ngự y cả một hàng dài
Nhiều loài dâng nộp những bài thuốc hay
Sân rồng cáo chẳng vãng lai
Nằm nhà không muốn đi giây chuyện người
Sói vào cung đem lời sầm tấu
Rỉ tai vua nói xấu bạn mình
Những muốn hun khói gia hình
Sư tử triệu cáo tới trình diện ngay
Chàng đành phải đến nơi đây
Và biết chuyện này do sói gây ra
Tâu quốc vương – Cáo ta bèn nói
Xin Ngài đừng bắt tội oan thần
Đã chậm trễ đến vấn an
Sức khoẻ ngài ngự, lo toan việc cầu
Thần cũng mong góp phần đáng kể
Được nâng cao sức khoẻ mình rồng
Nên lâu nay vẫn ruổi rong
Sưu tầm thuốc quý có trong muôn loài
Thần cũng gặp các ngài hiền triết
Các chuyên gia hiểu biết vấn đề
Thần đã nói cho họ nghe
Sức khoẻ bệ hạ nhìn về tương lai
Họ nhất trí là Ngài chỉ thiếu
Thiếu nhiệt do suy yếu tuổi già
Cần một sói đem lột da
Tấm da bốc khói, tấm da nóng già
Đem trùm lên trên da bệ hạ
Bí mật này phép lạ hồi xuân
Quan sói là bậc trung thần
Hiến da làm áo góp phần mới yên
Vua khoái lệnh lột liền tại chỗ
Da sói đây đem phủ lên người
Còn thì chế biến xong xuôi
Dâng lên ngài ngự ngon xơi bữa chiều
Cận thần lui tới trong triều
Gần vua chớ có đặt điều hại nhân
Tai hoạ gấp bốn lần hạnh phúc
Nói xấu người thu được chi đâu
Là quan là nghề trước sau
Không hề tha thứ cho nhau điều gì

Par des voeux importuns nous fatiguons les dieux,
Souvent pour des sujets même indignes des hommes:
Il semble que le Ciel sur tous tant que nous sommes
Soit obligé d’avoir incessamment les yeux,
Et que le plus petit de la race mortelle,
A chaque pas qu’il fait, à chaque bagatelle,
Doive intriguer l’Olympe et tous ses citoyens
Comme s’il s’agissait des Grecs et des Troyens.
Un sot, par une puce eut l’épaule mordue;
Dans les plis de ses draps elle alla se loger.
«Hercule, se dit-il, tu devais bien purger
La terre de cette hydre au printemps revenue.
Que fais-tu, Jupiter, que du haut de la nue
Tu n’en perdes la race afin de me venger? »
Pour tuer une puce, il voulait obliger
Ces dieux à lui prêter leur foudre et leur massue.

Dịch

Chúng mình làm thánh thần mệt lử
Bằng đủ điều xin xỏ quấy rầy
Vì những lý do xưa nay
Thường không xứng đáng với ngay con người
Làm như thể là Trời cứ phải
Dõi theo không rời lấy một phân
Ngần này sinh mạng cõi trần
Kẻ bé nhất thì mỗi lần dời chân
Chuyện tầm phào gặp chăng cũng muốn
Làm sao cho chộn rộn Thiên tào
Giống hệt thuở nào Hy Lạp và Tơ-roa
Chàng ngốc bị rệp cắn vai
Rệp chui vải trải kiếm hoài thấy đâu
“Héc-quyn hỡi – y làu bàu
Hãy tống ra khỏi địa cầu ngay cho
Bọn sát nhân cứ chờ xuân đến
Là quay về gây chuyện nơi đây
Jupiter, sao từ trên mây
Ngài lại không bắt loài này tuyệt luôn
Vì tôi mà rửa mối hờn”
Y muốn buộc để con rệp chết
Thánh và thần cho mượn sét, chuỳ

Rien ne pèse tant qu’un secret ;
Le porter loin est difficile aux dames ;
Et je sais même sur ce fait
Bon nombre d’hommes qui sont femmes.
Pour éprouver la sienne un mari s’écria,
La nuit étant près d’elle : Ô dieux ! qu’est ce cela ?
Je n’en puis plus ! on me déchire !
Quoi ! j’accouche d’un œuf ! ─ D’un œuf ? ─ Oui, le voilà
Frais et nouveau pondu : gardez bien de le dire ;
On m’appelleroit poule. Enfin n’en parlez pas.
La femme, neuve sur ce cas,
Ainsi que sur mainte autre affaire,
Crut la chose, et promit ses grands dieux de se taire ;
Mais ce serment s’évanouit
Avec les ombres de la nuit.
L’épouse, indiscrète et peu fine,
Sort du lit quand le jour fut à peine levé ;
Et de courir chez sa voisine :
Ma commère, dit-elle, un cas est arrivé ;
N’en dites rien surtout, car vous me feriez battre :
Mon mari vient de pondre un œuf gros comme quatre.
Au nom de Dieu, gardez-vous bien
D’aller publier ce mystère. —
Vous moquez-vous ? dit l’autre : Ah ! vous ne savez guère
Quelle je suis. Allez, ne craignez rien.
La femme du pondeur s’en retourne chez elle.
L’autre grille déjà de conter la nouvelle :
Elle va la répandre en plus de dix endroits ;
Au lieu d’un œuf elle en dit trois.
Ce n’est pas encor tout ; car une autre commère
En dit quatre, et raconte à l’oreille le fait :
Précaution peu nécessaire,
Car ce n’étoit plus un secret.
Comme le nombre d’œufs, grâce à la renommée,
De bouche en bouche alloit croissant,
Avant la fin de la journée
Ils se montoient à plus d’un cent.

Dịch

Giữ chuyện kín sao mà bứt rứt
Mang được lâu khó nhất các bà
Và tôi biết, chuyện kề cà
Lắm ông tính cũng rất là nữ nhi
Anh chàng nọ muốn truy thử vợ
Lúc đêm khuya, kêu rú bên tai:
“Ôi, tôi đau đẻ trời ơi!…
Ô hay! Đẻ cái quái thai trứng tròn!
Cái trứng hả? – Đây dòm xem thử
Chính nó đây nóng hổi? Và tươi
Giữ mồm giữ miệng mình ơi
Sểnh ra thiên hạ gọi tôi là “gà”
Chuyện này chị vợ ta lớ ngớ
Cũng như nhiều chuyện nọ chuyện kia
Cứ tin là thật và thề
Phật trời chứng giám, chẳng hề hé răng
Nhưng lời thề quên phăng rất chóng
Đã tan vào cùng bóng đêm tăm
Chị chàng vô tứ vô tâm
Trời hửng sáng, mới bước chân khỏi giường
Đã lẻn tót ngay sang hàng xóm
“Bà chị ơi, này gớm! Ôi cha
Chồng tôi ở cữ đêm qua
Đẻ ra trứng lớn hơn ba trứng thường
Giữ kín nhé, vô chừng bí mật
Lộ ra, chàng sẽ quật chết tôi”
Bà hàng xóm đáp: “Chị ơi
Xưa nay chị lạ gì tôi nữa nào
Còn muốn nói đùa sao đó hử
Cứ yên lòng chẳng sợ lộ đâu”
Vợ chàng đẻ về chưa lâu
Bà hàng xóm đã nao nao nóng lòng
Bà đem chuyện lạ lùng đi kháo
Cứ ton ton loan báo mươi nhà
Một quả trứng hoá thành ba
Cuộc truyền tin đã hết đà cho đâu
Một mẹ khác tăng câu chuyện lạ
Thấm thoắt thành bốn quả trứng tươi
Cũng thì thọt, cũng rỉ tai
Cần chi úp mở, “bem” khai toạc rồi
Rồi số trứng cứ dôi lên mãi
Mồm truyền mồm, càng nói càng tăng
Hết ngày lên tới ngoại trăm.

Deux vrais Amis vivaient au Monomotapa :
L’un ne possédait rien qui n’appartînt à l’autre :
Les amis de ce pays-là
Valent bien, dit-on, ceux du nôtre.
Une nuit que chacun s’occupait au sommeil,
Et mettait à profit l’absence du soleil,
Un de nos deux Amis sort du lit en alarme ;
Il court chez son intime, éveille les valets :
Morphée avait touché le seuil de ce palais.
L’Ami couché s’étonne ; il prend sa bourse, il s’arme,
Vient trouver l’autre, et dit : « Il vous arrive peu
De courir quand on dort ; vous me paraissiez homme
À mieux user du temps destiné pour le somme :
N’auriez-vous point perdu tout votre argent au jeu ?
En voici. S’il vous est venu quelque querelle,
J’ai mon épée ; allons. Vous ennuyez-vous point
De coucher toujours seul ? une esclave assez belle
Était à mes côtés ; voulez-vous qu’on l’appelle ?
– Non, dit l’Ami, ce n’est ni l’un ni l’autre point :
Je vous rends grâce de ce zèle.
Vous m’êtes, en dormant, un peu triste apparu ;
J’ai craint qu’il ne fût vrai ; je suis vite accouru.
Ce maudit songe en est la cause. »
Qui d’eux aimait le mieux ? Que t’en semble, lecteur ?
Cette difficulté vaut bien qu’on la propose.
Qu’un ami véritable est une douce chose.
Il cherche vos besoins au fond de votre coeur ;
Il vous épargne la pudeur
De les lui découvrir vous-même :
Un songe, un rien, tout lui fait peur
Quand il s’agit de ce qu’il aime.

Dịch

Tục truyền ở xứ xa, nơi nọ,
Có đôi bạn thật khó so bì.
Thương nhau một cách lạ kỳ,
Khó bề diễn tả, tìm gì đẹp hơn!
Về tài sản, chung nhau cộng hưởng,
Người nầy sắm, liên tưởng người kia.
Mỗi vật đồng hưởng, đồng chia,
Ðáng làm gương mẫu, tạc bia lưu truyền.
Có một đêm, nồng say giấc điệp,
Bỗng người em khủng khiếp chạy sang,
Nhà bạn, đang ngủ lặng trang,
Ðánh thức nô bộc, hỏi han sự tình.
Vừa thức giấc, người anh nai nịt,
Tay cầm gươm, lưng xích túi tiền,
Mừng rỡ thấy bạn bình yên,
Vội vàng thi lễ, tay liền nắm tay.
Anh biết rõ: tánh em cẩn thận,
Không vô cớ làm bận lòng anh.
Ðiều chi khiến bạn thất thanh,
Ðêm khuya vội vã tìm anh, thế nầy?
“Phải chăng đã lỡ thua hết sạch?
Ðây túi tiền, hãy xách về xài.
Hoặc đã gây gổ với ai,
Ðây gươm có sẵng, chẳng nài thân anh!
Hay là giữa đêm khuya giá lạnh,
Sống độc thân, em chạnh nghe buồn,
Cần người giải muộn, qua truông,
Ðây nàng hầu đẹp, nguôi buồn cho em.
Người đang bận hầu bên anh đó,
Nếu em thích, anh bỏ dễ dàng,
Gọi sang phụng sự tân lang,
Anh tìm nàng khác, muộn màng chi đâu?”
Nghe anh nói, người em cảm động,
Ôm lấy anh, lệ đọng nơi mi,
“Không, không, em chẳng cần chi,
Cảm ơn anh lắm, có gì thiếu đâu?”
Em đang ngủ, bỗng nhiên mộng mị,
Thấy anh buồn, rầu rĩ, bơ phờ,
Em sợ anh bị bịnh bất ngờ,
Hao mòn sức khoẻ bây giờ của anh.
“Tỉnh giấc nồng, em còn sợ hãi,
Nên bươn bả mau chạy sang đây,
Ðánh thức cả tớ, lẫn thầy,
Ðể nhìn tận mặt, dạ nầy mới an.”
Giữa hai người, ai thương nhiều nhứt?
Càng nghĩ suy, thổn thức từng cơn,
Ðẹp thay! Ðôi bạn keo sơn,
Khó mà định đoạt ai hơn nghĩa tình!
Tình bằng hữu thật tâm chân chính,
Là kho báu khó sánh nhứt đời,
Dễ gì tìm thấy ở nơi
Trần thế ô nhiễm của thời nầy đây.
Bạn tâm giao, thật là mầu nhiệm!
Ðoán nhu cầu đang chiếm lòng ta,
Âm thầm thoả mãn, chan hoà,
Không chờ ta thốt, để mà van xin.
Chỉ cần một chiêm bao mộng mị,
Khiến cho y rủn chí, ưu phiền,
Bồi hồi, lo nghĩ triền miên,
Sợ điều bất hạnh, bạn hiền cưu mang!

Trên đây, uct.edu.vn đã dành tặng đến quý độc giả những trang thơ hấp dẫn của nhà thơ La Fontaine. Ông là một nhà thơ Pháp nổi danh và trở thành một hình mẫu lý tưởng để nhiều thi sĩ khác học tập. Cảm ơn các bạn đã theo dõi bài viết này của chúng tôi!

Xem Thêm: Nhà thơ La Fontaine và trọn bộ trang thơ ấn tượng nhất phần 11

Related posts

Nhà thơ La Fontaine và trọn bộ trang thơ ấn tượng nhất phần 1

admin

Nhà thơ Bùi Giáng và tập thơ “Mưa nguồn hòa âm” (Phần 2)

admin

Chùm Thơ Hay Của Châu Hồng Thủy Và Thơ Dịch Tác Giả Khác

admin

Leave a Comment