Nhà Thơ Nổi Tiếng

Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu và tập Ngư tiều y thuật vấn đáp phần 6

Nguyễn Đình Chiểu là một trong những vì sao sáng trên bầu trời văn học miền Nam lúc bấy giờ. Bởi ở ông ta cảm nhận được một tư tưởng cao đẹp. Đó là hình tượng Kỳ Nhân Sư đã tự làm mù đôi mắt mình để không phải phục vụ cho kẻ thù. Và ở đó ta có thể cảm nhận được bóng dáng của nhà thơ- nhà tư tưởng lớn của dân tộc. Hãy cùng tìm hiểu các hồi tiếp theo trong truyện thơ Ngư tiều y thuật vấn đáp của Nguyễn Đình Chiểu bạn nhé!

Dương kinh lục phủ tỉnh, vinh, du, nguyên, kinh, hợp ca
(Bài ca về các huyệt tỉnh, vinh, du, nguyên, kinh, hợp của dương kinh thuộc sáu phủ)
Dịch nghĩa:
Tay chân đều có ba dương kinh, tổng cộng ba mươi sáu huyệt, cả hai bên phải và trái tổng cộng là bảy mươi hai huyệt.

Túc thiếu dương: Mật (đởm)
Khiếu âm làm huyệt tỉnh.
Hợp khê làm huyệt vinh.
Lâm khấp làm huyệt du,
Khưu khư làm huyệt nguyên.
Dương phụ làm huyệt kinh.
Dương lăng làm huyệt hợp.
(Khiếu âm biệt hậu, hận tương khiên,
Kỷ hiệp khê lâm khấp đỗ quyên.
Hoài bảo khưu khư tinh vị tất
Phiền quân dương phụ ký lăng tuyền.)

Thủ thiếu dương: tam tiêu
Quan xung làm huyệt tỉnh.
Dịch môn làm huyệt vinh.
Trung chữ làm huyệt du.
Dương tri làm huyệt nguyên.
Chi câu làm huyệt kinh
Thiên tỉnh làm huyệt hợp.
(Quang xung đào lý dịch môn tài,
Trung chữ, dương trì thứ đệ khai.
Hoa lạc chi câu hương mãn giản.
Nhất thiên tỉnh tự diệp phi lai).

Túc dương minh: Dạ dày
Lệ đoái làm huyệt tỉnh.
Nội đình làm huyệt vinh.
Khê cốc làm huyệt du.
Xung dương làm huyệt nguyên.
Giải khê làm huyệt kinh.
Tam lý làm huyệt hợp.
(Nhất phàm phong tống đoái đình tê (tây)
Hãm cốc xung dương quá giải khê.
Tam lý vị trí hà nhật đáo,
Kỷ phiên kiều thủ dục tư tề).

Thủ dương minh: Ruột già
Thương dương làm huyệt tỉnh,
Nhị gian làm huyệt vinh.
Tam gian làm huyệt du.
Hợp cốc làm huyệt nguyên.
Dương khê làm huyệt kinh.
Khúc trì làm huyệt hợp.
(Thương dương mao ốc nhị tam gian.
Hợp cốc dương khê độ kỷ loan
Cưu khúc trì biên minh nguyệt sắc,
Mãn thiên tinh đẩu dục ba lan).

Túc thái dương: Bọng đái
Chí âm làm huyệt tỉnh.
Thông cốc làm huyệt vinh.
Thúc cốt làm huyệt du
Kinh cốt làm huyệt nguyên
Côn lôn làm huyệt kinh
Uỷ trung làm huyệt hợp,
(Mao đinh kết khởi chí âm biên,
Thông cốc phù vân tứ vọng yên.
Kinh, thúc lưỡng phong long thổ phục,
Côn lôn sơn cận uỷ trung liên).

Thủ thái dương: Ruột non
Thiếu trạch làm huyệt tỉnh,
Tiền cốc làm huyệt vinh.
Hậu khê làm huyệt du,
Hoãn cốt làm huyệt nguyên.
Dương cốc làm huyệt kinh.
Thiếu hải làm huyệt hợp.
(Phù bình thiếu trạch nhậm đông tê (tây)
Tiền cốc nguyên lưu quá hậu khê
Hoãn cốt hựu thông dương cốc giản,
Tận cung thiếu hải lý ngư đê).

Âm kinh ngũ tạng tỉnh, vinh, du, kinh, hợp ca
(Bài ca về các huyệt tỉnh, vinh, du, kinh, hợp của các kinh âm thuộc ngũ tạng)
Dịch nghĩa:
Tay chân đều có ba kinh âm, tổng cộng ba mươi huyệt, cả hai bên phải và trái tổng cộng sáu mươi huyệt.

Túc quyết âm: Gan
Đại đôn làm huyệt tỉnh.
Hành gian làm huyệt vinh.
Thái xung làm huyệt du.
Trung phong làm huyệt kinh.
Khúc tuyền làm huyệt hợp.
(Vân hà yên toả đại đôn hề,
Tiếu chỉ hành gian lộ thái mê.
Dã tự trung phong vô đạo nhập,
Khúc tuyền hoàn hữu lão tăng quy).
Thủ quyết âm: Màng tim
Trung xung làm huyệt tỉnh.
Lao cung làm huyệt vinh,
Đại lăng làm huyệt du.
Gián sứ làm huyệt kinh.
Khúc tuyền làm huyệt hợp.
(Trung xung cô nhạn triệt vân tiêu,
Kỷ độ lao cung chỉ tự liêu.
Cánh hữu đại lăng biên gián sứ.
Xung dương khúc trạch mạc chiêu diêu).
Túc thiếu âm: Thận
Dũng tuyền làm huyệt tỉnh.
Nhiên cốc làm huyệt vinh.
Thái khê làm huyệt du.
Phục lưu làm huyệt kinh.
Âm cốc làm huyệt hợp.
(Tam thu vi khách dũng tuyền biên,
Nhiên cốc, khê, lưu quá tiểu niên.
Âm cốc hữu thuyền hồi tiện đáp,
Văn cừ quy khứ kỷ đa tiền).
Thủ thiếu âm: Tim
Thiếu xung làm huyệt tỉnh.
Thiếu phủ làm huyệt vinh.
Thần môn làm huyệt du.
Linh đạo làm huyệt kinh.
Thiếu hải làm huyệt hợp.
(Thiếu xung, thiếu phủ bả sư ban.
Binh mã thần môn đắc thắng hoàn.
Linh đạo chiến thư tiền nhật phát,
Như kim thiếu hải tận quy hàng).
Túc thái âm: Lá lách
Ẩn bạch làm huyệt tỉnh.
Đại đô làm huyệt vinh.
Thái bạch làm huyệt du.
Thương khưu làm huyệt kinh.
Lăng tuyền làm huyệt hợp.
(Ẩn bạch vân trung nhất lão tăng,
Đại đô ly tục thiểu nhân tăng.
Kỷ hồi thái bạch thương khưu quá,
Ngập tận lăng tuyền thuỷ cộng chưng).
Thủ thái âm: Phổi
Thiếu thương làm huyệt tỉnh.
Ngư tế làm huyệt vinh.
Thái uyên làm huyệt du.
Kinh cừ làm huyệt kinh,
Xích trạch làm huyệt hợp.
(Thiếu thương hồ hải đổ ngư ông,
Ngư tế thái uyên bất khả phùng.
Kim nhật kinh cừ thuyền mã tải,
Tu tri xích trạch hoạch xà long).
Hồi 22

Khí huyết quán chú thập nhị kinh, trú dạ chu nhi phục thuỷ ca
(Bài ca về vòng tuần hoàn trong một ngày đêm của khí huyết vận hành qua mười hai kinh mạch)
Dịch nghĩa:
Hiểu trình trung phủ mã đề mang,
Hoài bảo tư lương xuất thiếu thương.
Cực mục thương dương tòng thử khứ,
Gia tiên nhất trực thượng nghênh hương.

Tự thừa khấp biệt lưỡng vi mang,
Ức tích phân huề lệ đoái hương,
Quy ẩn bạch vân chuyên mại túc,
Đại bao lường tận, tiểu bao lường.

Tâm xuất cực tuyền tự thuỷ thanh,
Thân như bình diệp thiếu xung linh.
Tự tòng thiếu trạch thừa tra khứ,
Hốt thính cung nga hữu tiếu thanh.

Tình minh lưỡng mục phán phù dung,
Vũ chí âm trầm nguyệt sắc mông.
Tịch mịch dũng tuyền nhân bất kiến,
Không văn du phủ báo thời chung.

Kỷ niên hạp kiếm dược thiên trì,
Vân quyển trung xung nhập tử vi.
Tam vũ quan xung vô trú trở,
Trúc ty liêm ngoại bá lao phi.

Đồng tử hiểu tư tự diểu nhiên,
Thời thời lưu luyến khiếu âm biên,
Đại đôn nhật nguyệt thường lai vãng
Phục nhập kỳ môn hựu nhất thiên.

Tiều rằng: Tạng phủ trong ngoài,
Mười hai kinh nguyệt gẫm bài thơ hay.
Hơi đi máu chạy dần quay,
Sáu bài khí huyết nghe nay mặt mờ.
Môn rằng: Khí huyết sáu thơ,

Mỗi câu mỗi huyệt luôn bờ lại qua.
Lần nghe thứ lớp kể ra:
Bài đầu từ phế chạy qua đại trường.
Xung phủ đến huyệt Thiếu thương,
Mối theo hung ức, ra đường ngón tay.
Thương dương cũng ngón cái tay,
Chạy lên trước mũi, tên bày Nghênh hương,
Bài nhì, vị với tỳ hương,
Thừa khấp tủa xuống dưới đường ngón chân.
Lệ đoài lên ngón cái chân,
Ẩn bạch xuống ngón thẳng chừng Đại bao
Đại bao vú tả làm rào,
Bài ba tâm chủ, cùng ao tiểu trường.
Cực tuyền chỗ tột da xương,
Hữu ra ngón út, đầu đường Thiếu xung.
Thiếu trạch ngón út tả thông,
Thính cung tai tả ở lồng bên tai.
Bài tư bàng quanh, thân cai,
Tình minh gốc mũi xuống dài Chí âm.
Ngón chân út tả Chi âm.
Giữa bàn chân hữu lại xâm Dũng tuyền.
Dũng tuyền ấy chạy lên liền,
Đến Du phủ huyệt tả biên hữu điều.
Bài năm tâm bào, tam tiêu,
Thiên trì giữa bụng ra chiều Trung xung.
Tay hữu ngón giữa: Trung xung,
Tay tả ngón cái: Quan xung trổ màu,
Quan xung tả chạy lên đầu,
Trúc ty huyệt ấy ở sau chặng này.
Bài sáu đảm với can vầy,
Ra từ Đồng tử, xuống đầy Khiếu âm.
Đồng tử gò má tả cầm,
Ngón chân út tả, Khiếu âm chỗ phòng.
Ngón chân út hữu Đại đôn,
Thẳng bên vú hữu, Kỳ môn đóng đồn.
Ngày đêm khí huyết xây vòng,
M ười hai kinh lạc, ngoài trong khắp hoà.
Khí như mã, huyết như xa,
Xa nhờ mã kéo, mã hoà xa đi,
Thử xem bộ sách Lý y
Vẻ hình gương giá dùng thì khá tra.
Ngư rằng: Như gấm thêm hoa,
Nhớ lời đạo hữu dạy ta đành(rành?) rành.
Dạy rằng: “Muốn thấy phép linh,
Coi chừng trời đất trong hình người ta”.

Đường huynh nay lại vẻ ra,
Máy trời đất nhắm trong ba hình người.
Môn rằng: Coi tấm thân người,
Mười hai chi hoá, cùng mười can sinh
Nội kinh câu chữ luận rành:
“Thân tứ đại hoá hữu sinh”, phải lời.
Dung y mấy biết thời trời,
Nỡ đem thuốc độc thử chơi mạng người,
Ta thường lo sợ mạng người,
Gắng công đọc sách hơn mười năm nay,
Nhiệm màu mới thấy chỗ hay,
Minh Đường thơ cổ, ngâm rày người nghe:
Minh Đường Thi
(Bài thơ về minh đường)
Dịch nghĩa:
Giáp thuộc mật, Ất thuộc gan, Bính thuộc ruột non,
Đinh thuộc tim, Mậu thuộc dạ dày, Kỷ thuộc lá lách,
Canh thuộc ruột già, Tân thuộc phổi,
Nhâm thuộc bọng đái, Quý do thận giữ,
Tam tiêu cũng gởi về ở cung nhâm,
Màng tim cùng tụ về ở cung quý.

Lại có thơ rằng
(Bài thơ về minh đường)
Dịch nghĩa:
Phổi ứng với Dần, ruột già ứng với Mão, dạ dày ứng với Thìn,
Lá lách ứng với Tỵ, tim ứng với Ngọ, ruột non ứng với Mùi,
Thân ứng với bọng đái, Dậu ứng với thận, màng tim ứng với Tuất,
Hợi ứng với tam tiêu, Tý ứng với mật, Sửu ứng với gan.

Coi hai thơ ấy tỏ tình,
Thấy trời đất ở trong mình người ta
Cho hay máy tạo chẳng xa,

Âm dương qua lại, trẻ già trong thân.
Tiều rằng: Đạo hữu trước phân,
Mười hai kinh lạc có phần thơ ca.
Còn lo tính thuốc nhiều khoa,
Dẫn kinh mấy vị, hỏi qua chưa rành.
Môn rằng: Học phải có hành,
Hợp coi vị thuốc dẫn kinh cho tường.
Thái dương kinh túc bàng quang,
Kinh thủ tiểu trường, phần biểu nêu tên.
Khương hoạt, Cao bản, dẫn lên,
Hoàng bá dẫn xuống, chớ quên mà lầm.
Trong ấy là kinh Thiếu âm,
Gọi rằng túc thận, thủ tâm hai phần.
Vào trong Hoàng bá, Tế tân,
Khương hoạt, Tri mẫu, về phần thận chuyên.
Thiếu dương kinh hoả biểu truyền,
Túc là phủ đảm, thủ liền tam tiêu.
Sài hồ, Xuyên khung lên điều,
Thanh bì xuống dắt, trị tiêu nhờ chàng.
Trong rắng Túc Quyết âm can,
Thủ mệnh môn hoả, hai đàng kinh đi.
Sài hồ, Xuyên khung, Thanh bì
Tuy chia biểu lý, cũng y một đường.
Dương minh kinh túc vị hương,
Kinh thủ đại trường, chỗ chứa đồ ăn,
Thăng ma, Bạch chỉ, Cát căn,
Thạch cao lên xuống, nêu rằng dẫn kinh,
Phần trong là Thái âm kinh
Túc tỳ, thủ phế, hai tình cũng y.
Bạch thược, Thăng ma vào tỳ,
Cát cánh, Bạch chỉ, Thung đi phế đình.
Ấy đều vị thuốc dẫn kinh,
Trong ngoài nhận chứng cho tinh khỏi lầm.
Ngư rằng: Ba dương, ba âm,
Sáu kinh dón lại chứng làm dường nào?
Môn rằng: Bệnh mới cảm vào,
Sáu kinh kiến chứng, xưa rao rõ ràng.
Thái dương phát nóng, ghét hàn,
Cứng đơ xương sống, đau ngang lưng quần.
Thiếu dương nóng lạnh không chừng.
Tai bùng, miệng đắng, ẩu lừng nách hông.
Dương minh nóng khát nước sòng,
Mũi khô, mắt nhức, ngồi chong chẳng nằm.
Lại thêm ỉa bón hãn dầm,
Ngầy xem ban mọc, da ngâm nước vàng.
Thiếu âm họng lưỡi khô khan,
Nóng lòng thèm nước dựa màn nằm co,
Quyết âm gân giật, hung no,
Lưỡi cong, dái thụt, môi lò sắc xanh.
Thái âm đau bụng no cành,
Ỉa không, khát nước, nóng hình chân tay.
Âm dương các chứng tỏ bày,
Lại còn hợp bệnh, lâu ngày truyền kinh.
Trong ngoài nhận chứng chẳng tinh,
Mang câu “dẫn khấu nhập đình”, tội to.
Học y muốn khỏi tội to,
Hợp kinh mấy chứng phải dò căn nguyên.
Sẵn lời ca quyết thầy truyền,
Ta xin thuật lại người biên giúp đời:
Tam dương kinh kiến chứng tổng quyết
(Khái quát về triệu chứng các bệnh thuộc ba dương kinh)
Dịch nghĩa:
Phát nóng, sợ rét, lưng và xương sống đau (Thái dương).
Mắt đau, mình nóng, trong mũi khô (Dương minh).
Tai ù, miệng đắng, cổ oẹ khan.
Nóng rét liên tiếp xen kẽ nhau, dưới hông đau ê (Thiếu dương).

Tam âm kinh kiến chứng tổng quyết
(Khái quát về triệu chứng các bệnh thuộc ba âm kinh)
Dịch nghĩa:
Tay chân nóng hâm hấp, lúc lúc lại đau bụng. (Thái âm).
Đi lỵ mà không khát nước, vốn là tạng bị hàn (Thái âm).
Mạch trầm, sợ khô, vốn liên quan với thận,
Uống ừng ực, cổ khô, nước dãi ít (Thiếu âm).
Gân rút, môi xanh, tứ chi đau,
Tai ù, luỡi cuốn lại thụt dái (Quyét âm).

Lưỡng cảm chứng ca
(Bài ca về triệu chứng bệnh lưỡng cảm)
Dịch nghĩa:
Chứng thương hàn lưỡng cảm nửa âm nửa dương,
Lúc bắt đầu, đầu nhức chịu không nổi.
Trong người bứt rứt, miệng khô, hay khát nước,
Vốn là do thận và bọng đài cùng bị bệnh.

Lưỡng thương bệnh chứng ca
(Bài ca về triệu chứng bệnh lưỡng thương)
Dịch nghĩa:
Nguyên là Thái dương và Dương minh cùng bị bệnh,
Bệnh cả hai kinh dồn lại làm một.
Nếu còn chứng về Thái dương thì nên làm ra mồ hôi (phát hãn),
Nếu không còn chứng về Thái dương thì nên dùng phép hạ (xổ).

Biểu bệnh chứng ca
(Bài ca về triệu chứng các bệnh thuộc biểu)
Dịch nghĩa:
Phát nóng, sợ rét là chứng biểu,
Mạch Phù, đau mình là thuộc kinh Thái dương.
Sợ rét ấy là biểu hư,
Dùng thuốc phát biểu nên xét rõ nặng nhẹ.
Mùa xuân, dương khí còn kém và yếu,
Nếu dùng thuốc phát hãn (làm ra mồ hôi) quá thì âm sẽ thắng,
Mùa đông, dương khí nấp sâu ở trong thì phát hãn là đúng.
Nếu dùng thuốc nhẹ thì bệnh không khỏi.

Lý bệnh chứng ca
(Bài ca về triệu chứng các bệnh các bệnh thuộc lý)
Dịch nghĩa:
Mạch của chứng lý, Trầm mà Hoạt,
Không sợ lạnh chừ, lại sợ nóng,
Lòng bàn tay và dưới bụng mồ hôi dầm dề,
Cổ ráo miệng khô, phân táo kết,
Bụng đầy, bị suyễn, có khi nói sàm,
Đại tiện không đều, càng lúc càng nóng,
Ấy là nóng ở trong, đúng là bệnh lý thực,
Đó là các chứngthuộc kinh Dương minh, nên dùng thuốc hạ (xổ)

Luận biểu lý tạng phủ sở thuộc ca
(Bài ca luận về các bệnh biểu lý thuộc tạng phủ)
Dịch nghĩa:
Các chứng bệnh ở bọng đái, dạ dày và mật thuộc về dương,
Các chứng bệnh ở lá lách, thận và gan thuộc về âm,
Mạch Phù, Trường, Huyền thuộc dương, mạch Tế, Trầm, Vi, Hoãn thuộc âm.
Trước hãy xem mạch và chứng thuộc về biểu hay lý.

Trên đây là một số hồi tiếp theo Nguyễn Đình Chiểu viết trong tập Ngư tiều y thuật vấn đáp. Qua đó ta có thể hiểu được nhân cách cao thượng của cụ và tại sao lại được yêu mến và kính trọng như vậy. Bởi người thầy thuốc chân chính trong nhân dân làm nghề thuốc còn vì mục đích từ thiện chứ không phải kinh doanh trên nỗi đau của đồng bào.

Xem thêm: Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu và tập Ngư tiều y thuật vấn đáp phần 7

Related posts

Nhà thơ Vương Duy cùng trọn bộ những thi phẩm đặc sắc nhất phần 1

admin

Nhà thơ Bùi Chí Vinh và tập “Thơ tình” (1989) phần cuối

admin

Nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên và trọn bộ tập thơ Minh Khúc

admin

Leave a Comment