Nhà Thơ Nổi Tiếng

Nhà Thơ Thanh Tịnh Cùng Những Bài Thơ Đặc Sắc Nhất

Thanh Tịnh được biết đến không chỉ là một nhà thơ mà còn là nhà viết kịch , làm báo kiệt xuất. Ông được coi là người sáng tạo ra thể “tấu nói”, đi đầu trong lối viết “những đoạn văn ngắn” và là nhà văn có nhiều giai thoại văn học. Với ngòi bút tài hoa và sáng tạo của mình những bài thơ của ông được rất nhiều bạn trẻ yêu thích và ngưỡng mộ. Trước sự cống hiến không ngừng nghỉ trong sáng tác mà ông đã đạt được nhiều giải thưởng danh giá về văn học nghệ thuật

Hôm nay các bạn hãy cùng uct.edu.vn cảm nhận những thi phẩm của ông nhé!

Nội Dung

– Thanh Tịnh tên thật là Trần Văn Ninh, sinh ngày 12 tháng 12 năm 1911 tại Huế. Mất ngày 17 tháng 7 năm 1988 tại Hà Nội, hiện phần mộ đặt tại núi Thiên Thai phía Tây Thành phố Huế. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam (1957).

– Nhà thơ Thanh Tịnh từng là học sinh trường Penlơ Ranh (trường dòng), ở Huế, làm nghề hướng dẫn viên du lịch, dạy học, đo đạc ruộng đất, có thơ in trong Thi nhân Việt Nam, xuất bản năm 1942. Sau Tổng khởi nghĩa tháng Tám (1945), Tổng Thư ký Hội Văn hoá Cứu quốc Trung Bộ, đầu quân phụ trách đoàn kịch Chiến thắng của quân đội. Khi tạp chí Văn nghệ quân đội ra đời, ông là Phó Chủ nhiệm rồi Chủ nhiệm.

-Về sau, ông thôi làm lãnh đạo, chuyên sáng tác. Ông đã là uỷ viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam (khoá I, II), uỷ viên Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam. Cấp bậc Đại tá QĐND Việt Nam trước khi nghỉ hưu.

– Ngoài thơ, ông còn làm ca dao, viết kịch, viết báo; được coi là người sáng tạo ra thể “tấu nói”, đi đầu trong lối viết “những đoạn văn ngắn” và là nhà văn có nhiều giai thoại văn học.

– Tác phẩm đã xuất bản: Ngậm ngải tìm trầm (truyện ngắn, 1943); Quê mạ (truyện ngắn, 1941); Chị và em (truyện ngắn, 1942); Xuân và Sinh (truyện ngắn, 1944); Hận chiến trường (thơ, 1937); Sức mồ hôi (ca dao, 1954); Thơ ca (thơ, 1973); Đi giữa mùa sen (truyện thơ, 1980); Thanh Tịnh đời và văn (1996).

– Ông đã nhận Giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam (1951-1952) cho những bài độc tấu xuất sắc.

Thanh Tịnh là một nhà thơ nổi tiếng của đất nước được nhiều bạn đọc mến mộ. Ông được mệnh danh là ” cây bút thần ” khi ông giỏi nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Những bài thơ của ông luôn cuốn hút người đọc bởi sự lãng mạn trữ tình. Chúng ta cùng nhau khám phá và cảm nhận những bài thơ của ông nhé!

Chiều về trên cỏ non thu,
Trăng ve nắng nhạt sầu ru lá vàng.
Hồ sâu chan chứa lệ ngàn,
Nai con lạ núi muôn vàn bơ vơ.
Chân mây mở rộng đợi chờ,
Chim nương cánh gió làm thơ lạc vần.
Một hai sao nở dần dần,
Ngày đi lặng lẽ đêm gần gần đây.
Bàng hoàng gió gạt hương cây,
Đêm mông lung rộng trăng mây kín trời.

Cô láng giềng tôi đẹp mặn mà,
Môi hồng luôn điểm nụ cười hoa
Gặp tôi qua ngõ thì cô đã
thỏ thẻ: “Mời anh ghé lại nhà.”

Bên đường tôi ngắt cánh hoa lê
Bỗng gặp cô em gánh gạo về.
Trên gạo cô mời tôi đến để:
Thúng này sách vở, thúng này… lê.

Tôi si giọng hát của cô em
Trong trẻo, thơ ngây giọng rĩ rền.
Gấp sách tôi ngồi vơ vẩn mộng
Giật mình canh vạc đã kêu đêm.

Một hôm tôi viết bức thư tình
Tạm biệt cô em đến Đế kinh.
Đôi má ửng hồng cô đến nói,
Nói hoài chỉ được: “Em yêu anh”.

…Về nhà độ ấy nhãn còn non
Cách mặt cô em mấy hạ tròn.
Thổn thức bên nhà hơi hát nhẹ
Nhẹ nhàng mới biết hát … ru con.

Người cũ đây rồi bạn cũ đây
Cầm tay lại nói chuyện chia tay
Ba mươi năm chẵn xa lâu nhỉ?
Mà tưởng cách nhau mới mấy ngày

Giòng giòng kỷ niệm tuôn xuôi ngược
Lẫn lộn vui buồn dệt ngổn ngang
Cũng quên khóc trước hay cười trước
Chỉ nhớ bên song nắng trải vàng

Chuyện dài chưa dứt bỗng ngồi yên
Biết nói làm sao hết nỗi niềm
Tóc bạc ngỡ ngàng hai mái tựa
Thẹn thùng như buổi gặp đầu tiên

Mồ hôi mà đổ xuống đồng
Lúa mọc trùng trùng sáng cả đồi nương
Mồ hôi mà đổ xuống vườn
Dâu xanh lá tốt vấn vương tơ tằm
Mồ hôi mà đổ xuống đầm
Cá lội phía dưới, rau nằm phía trên
Mồ hôi xuống, cây mọc lên
Ăn no đánh thắng, dân yên nước giàu.

(Mồ hôi đổ xuống hoa màu
Chặn tay thằng Mỹ, dúi đầu thằng Tây
Ai ơi ra sức cấy cày
Thêm giờ lao động, bớt ngày lao đao.)

Ngượng như thôn nữ mới lên Kinh
Như quả tim non đượm máu tình,
Ngơ ngác cô nhìn xem lặng lẽ
Muôn nghìn vẻ lạ sắc tươi xinh.

Cô đem so sánh vẻ cao sâu,
Của chốn phồn hoa với ruộng bầu
Như cảnh muôn màu cô ví với
Sắc đồng lúa chín nước ao thâu.

Bên hồ trong biếc nước phun rơi
Những gái thần kinh ghé lại ngồi,
Vui vẽ cùng nhau thi rẽ tóc
Đếm màn hoa giấy quyến hoa khôi.

Bất giác cô em cũng chạnh lòng
Đưa tay nhẹ rẽ mớ tơ xuân
Mớ tơ ngày tháng sương trời điểm
Buồn để cô em lụy nhỏ dòng.

I
Rồi một hôm, nếu về, cha hỏi:
Mẹ ở đâu? con biết nói sao?
Con hãy bảo: trông cha mòn mỏi
Mẹ từ trần sau mấy tháng đau.

II
Nếu cha hỏi sao nhà vắng vẻ?
Mẹ khuyên con hãy trả lời sao?
Con lặng chỉ bình hương khói rẽ.
Và trên giường chỉ đĩa dầu hao!

III
Nếu cha hỏi cặp đào trước ngõ
Sao chỉ còn một gốc ngả nghiêng?
Con sẽ chỉ một cây đào nhỏ
Bên cây tùng, rồi đứng lặng yên.

IV
Còn mồ mẹ, nếu cha muốn biết,
Phải hướng nào, con nói cùng cha?
Con lặng chỉ bầu trời xanh biếc
Và bên trời chỉ nội cỏ xa!

– Em ơi nhẹ cuốn bức rèm tơ
Tìm thử chân mây khói toả mờ
Có bóng tình quân muôn dặm ruổi
Ngựa hồng tuôn bụi cõi xa mơ

– Xa nhìn bên cõi trời mây
Chị ơi em thấy một cây liễu buồn.

– Bên rừng em hãy lặng nhìn theo,
Có phải chăng em ngựa xuống đèo?
Chị ngỡ như chàng lên tiếng gọi
Trên mình ngựa hí lạc vang reo.

– Bên rừng ngọn gió rung cây,
Chị ơi con nhạn lạc bầy kêu sương.

– Tên chị ai gieo giữa gió chiều,
Phải chăng em hỡi tiếng chàng kêu?
Trên dòng sông lặng em nhìn thư?
Có phải chăng người của chị yêu?

– Sóng chiều đùa chiếc thuyền lan,
Chị ơi con sáo gọi ngàn bên sông…
Ô kìa! Bên cõi trời đông
Ngựa ai còn ruổi dặm hồng xa xa

– Này lặng em ơi, lặng lặng nhìn
Phải chăng mình ngựa sắc hồng in?
Nhẹ nhàng em sẽ buông rèm xuống,
Chị sợ trong sương bóng ngựa chìm.

– Ngựa hồng đã đến bên yên,
Chị ơi, trên ngựa chiếc yên… vắng người.

Sóng lụa đưa thuyền đỗ bến mơ,
Trời dồn nẻo khuất khách bơ vơ.
Thuyền trôi muôn bến tình quay lái,
Khách vọng chờ xa một bến bờ.

Miệt mài thuyền chảy nối mênh mông
Rủ nắng thu tơ dính cạnh lòng.
Khách lặng quay nhìn muôn bến khuất
Tiếc thầm như gió quyện trời không?

Thuyền trôi không bến tiếng không vang,
Đời chảy quen sông đỡ lạ ngàn.
Nhưng một chiều thu thuyền bỗng đỗ
Bên bờ sông trắng gió lan man.

Khách ghé nhưng lòng chẳng ghé theo
Buồn vương trong bước nước sông reo.
Chiều đưa tiếng gọi giang hồ vẳng
Khách trở về sông lặng thả chèo.

Sông núi vươn dài tiếp núi sông
Cò bay thẳng cánh nối đồng không
Có người bảo Huế xa, xa lắm
Nhưng Huế quê tôi ở giữa lòng.

Mười một năm trời mang Huế theo
Đèo cao nắng tắt bóng cheo leo
Giọng hò mái đẩy vờn mây núi
Man mát sông Hương lướt đỉnh đèo

Tôi gặp bao người xứ Huế xa
Đèn khuya thức mãi chí xông pha
Mở đường giải phóng về quê mẹ
Dựng khắp non sông bóng xóm nhà

Có bao người Huế không về nữa.
Gửi đá ven rừng chép chiến công
Có mồ liệt sỹ nâng lòng đất.
Buồm phá Tam Giang gió thổi lồng.

Nặng trĩu trăm năm bóng cổ thành
Bao lần máu đỏ nhuộm đồng xanh
Cờ sao ngày ấy buồn cung cấm
Sông nước xôn xao núi chuyển mình

Bao độ thu về, thu lại qua
Huế tôi thăm thẳm nhớ con xa
Mỗi lần phượng nở rung màu đỏ
Càng giục canh sương rộn tiếng gà.

Nương tử ơi!Ta tìm gì được
Bóng vô tình trên nét tiên nga.
Hay lời thừa trong giọng trầm ca
Để quên nỗi nhớ thương ngày trước

Nương tử ơi! Ta mong tìm mãi
Vẻ bơ phờ trên dáng diệu tiên.
Để lừa ta sắc đẹp u huyền
Mà buổi ấy lòng ta tê tái

Nương tử ơi! Sắc trang kiều mỹ,
Tìm đâu ra vẻ úa minh hoa;
Nét thô sơ của sắc đậm đà
Mà ta muốn tầm thường vô vị.

Ác thật! nàng ơi! ta ác thật!
Vì quá ưa nàng kém vẻ xuân
Và luôn phai những nét sắc thần
Mà lắm phút ta quên trời đất.

Là vì, nàng ơi ta muốn dối
Mảnh u tình tha thiết của ta.
Nhưng vết trần đâu bợn huyền nga
Nét thường tụ, mà mong an ủi.

Đạm đạm trường giang thuỷ,
Du du viễn khách tình.
Lạc hoa tương dữ hận,
Đáo địa nhất vô thanh.
(Thơ xưa)

Còn khổ gì hơn lúc xế chiều,
Em không trông thấy bóng người yêu.
Mơ màng em đợi tình quân gọi,
Khắc khoải bên đồng tiếng dế kêu.

Dế kêu ran tận chân trời,
Thương anh, em gọi nhưng lời không đi.
Phương em đứng ngóng phương gì?
Mà chiều tháng trước anh đi không về.

Mưa phùn tháng trước khắp vùng quê,
Quảy gánh em không quản nặng nề.
Đưa tận bến thuyền em trở bước,
Đau lòng em ngắm cánh buồm lê.

Buồm lê trắng xóa phương ngàn,
Chập chờn khi hiện khi tàng trong sương.
Thuyền anh theo nước dòng Hương,
Bơ vơ nội cỏ rừng dương, em về.

Em về nhằm buổi tối mù đen,
Leo lét hai bên ánh sáng đèn.
Cuối xóm em nghe chồng cợt vợ,
Nhà em thui thủi một mình em.

Một mình em chuyển xe tơ,
Gió lòn khe cửa anh mơ anh về.
Ngoài hiên mưa gió dầm dề,
Buồn ôm gối lạnh em kê má hồng.

Rồi đêm ấy qua, đêm khác qua,
Bao nhiêu đêm lặng bấy đêm mà.
Bên thềm trăng giãi sương rơi lạnh,
Mãi nhắc em hay anh vắng nhà…

Tìm dấu hoa xưa giữa cánh đồng.
Bên mình chỉ nhận lúa đầy bông.
Tơ trời lơ lững vươn mình uốn
Đến nối duyên mình với… cõi không!

Trường học làng tôi ở cạnh đình
Một trường ba lớp vẻ xinh xinh
Trước trường có mấy cây đào lớn
Thường quyến lòng tôi những cảm tình.

Trường tôi mặt trước ngó ra sông
Còn mặt đằng sau ngó cánh đồng
Phía ấy thày tôi thường hỏi hướng
Tôi vòng tay đáp: Dạ, phương Đông.

Thầy tôi tầm thước mảnh và cao
Cặp mắt long lanh má nhuốm đào
Mái tóc hơi quăn, cằm hơi nhọn
Nụ cười thường lẫn tiếng khao khao.

Sau ba năm học ở trường làng
Tôi thấy trong lòng đã mở mang
Tôi biết con bò: loài nhai lại
Và tin trời đất rộng thênh thang.

Năm nay thôi học ở trường quê
Nhớ lại lòng tôi cảm nặng nề
Những buổi thu sương buồn ảm đạm
Trống trường vang dội phía sau đê.

Nào những buổi bình minh nắng gội
Tắm gốc rừng run rẩy dưới sương mai.
Thì giữa ngàn cây thác đổ rền tai
Vài cô gái trần truồng bì bõm lội.

Mấy cô đãi vàng trên dòng thác
Giữa voi gầm, gió hú, hổ rình xa
Và giữa ngàn linh, rừng thẳm bao la
Đàn trăn lục lươm mồi trên nước bạc.

Nước lay đá, hâm hùng như say phản
Chần các cô bên mỏm đá nhám xanh,
Đoạn cúi lôi theo theo gậm núi loanh quanh
Vung máu nhuộm hang sâu màu đỏ loãng!

Trong lúc ấy các ngai vàng chói lọi
Bốn phương trời rạng rỡ ánh kim thoa
Buổi tiệc đêm trong điện các hương pha
Nghìn thanh nữ đầy thân vàng loáng ngợi …

Hay thiếu phụ cõng con trên lưng nặng
Đãi cát vàng bên hốc núi cheo leo
Thấy vàng trôi, nàng hớn hở với theo
Vô ý ngã, con rơi, dòng lôi thẳng.

Nàng hốt hoảng đuổi vàng theo con dại
Thì bên chân vàng đứng, xoáy không trôi
Cúi lượm lên, nàng bỗng ngã: con ôi!
Nước lùa mẹ theo con, dòng thác chảy.

Trong lúc ấy các ngai vàng chói lọi.
Bốn phương trời rạng rỡ ánh kim thoa.
Buổi tiệc đêm trong điện các hương pha
Nghìn thanh nữ đầy thân vàng loáng ngợi…

Trên đây., uct.edu.vn đã dành tặng bạn chùm thơ vang danh của nhà thơ Thanh Tịnh. Những bài thơ này luôn đi sâu vào tâm hồn bạn đọc mạnh mẽ. Với những ý nghĩa và giàu tình cảm mà nhiều bài thơ của ông đã được phổ nhạc và được nhiều bạn trẻ yêu thích và ca ngợi. Hãy theo dõi chúng tôi để có thể cập nhật những bài viết đặc sắc hơn nhé! Thân Ái ! 

Related posts

Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu và tập Ngư tiều y thuật vấn đáp phần 7

admin

Phạm Công Thiện và trọn bộ tập thơ Trên Tất Cả Đỉnh Cao Là Lặng Im phần 6

admin

Nguyễn Nhật Ánh và những bài thơ hay nổi tiếng nhất phần đầu

admin

Leave a Comment