Nhà Thơ Nổi Tiếng

Nhà Thơ Tùng Thiện Vương Cùng Những Bài Thơ Đặc Sắc Phần 1

Tùng Thiện Vương 從善王 (1819-1870) vốn tên lúc lọt lòng là Nguyễn Phúc Hiện 阮福晛, sau được cải thành Nguyễn Phúc Miên Thẩm 阮福綿審, tự Thận Minh 慎明, Trọng Uyên 仲淵, hiệu Thương sơn cư sĩ 倉山居士, biệt hiệu Bạch hào tử 白毫子, là con trai thứ mười của vua Minh Mạng và là bạn thơ chí tình của Cao Bá Quát

Ông sở hữu một chùm thơ đặc sắc được nhiều bạn đọc yêu mến. Ông góp một phần lớn trong sự nghiệp thơ ca Việt Nam. Hôm nay chúng ta hãy cùng nhau khám phá những bài thơ đặc sắc của ông nhé!

Nội Dung

長江天險到如今,
百曲崩奔入海深。
勝策帝王三捷揍,
貪兵樓櫓萬船沉。
沿崖青壁雲霄起,
隘地蒼波日月陰。
一自關河攏戰罷,
中流依舊鳥星臨。

Bạch Đằng giang
Trường giang thiên hiểm đáo như câm (kim),
Bách khúc băng bôn nhập hải thâm.
Thắng sách đế vương tam tiệp tấu,
Tham binh lâu lỗ vạn thuyền trầm.
Diên nhai thanh bích vân tiêu khởi,
Ải địa thương ba nhật nguyệt âm.
Nhất tự quan hà long chiến bãi,
Trung lưu y cựu Điểu tinh lâm.

Dịch nghĩa
Dòng sông dài còn giữ thế rất hiểm yếu cho đến bây giờ
Trăm khúc quanh chảy băng băng đổ vào biển cả
Có kế sách đánh thắng, các đế vương ba lần thành công
Muôn chiếc thuyền có vọng lâ của bọn lính tham tàn bị đánh chìm
Trên những ngọn núi màu xanh đứng thẳng như những bức tường ven bờ, bầu trời cao vút
Giữa vùng đất hiểm trở, cuồn cuộn những con sóng biếc, mặt trời mặt trăng tối mờ
Từ khi trên ải và sông, cuộc chiến giành giữ đất đa chấm dứt
Giữa dòng sông, chòm sao Châu Điểu lại soi xuống sáng rực như xưa

辛苦貧家子,
年年寒復饑。
枵腸蔬替飯,
凍骨火為衣。
遍地猶兵甲,
旻天且疾威。
朱門樂何事,
夜飲達朝暉。

Bần gia
Tân khổ bần gia tử,
Niên niên hàn phục cơ.
Hiểu trường sơ thế phạn,
Đống cốt hoả vi y.
Biển địa do binh giáp.
Mãn thiên thả tật oai,
Chu môn lạc hà sự,
Dạ ẩm đạt triều huy.

淡茗殘香夜四更,
衰年見事易關情。
燈花豆人照無寐,
臥聽蝤蠐蝕木聲。

Bất mị tuyệt cú
Đạm mính tàn hương dạ tứ canh,
Suy niên kiến sự dị quan tình.
Đăng hoa đậu nhân chiếu vô mị,
Ngoạ thính tù tề thực mộc thanh.

Dịch nghĩa
Trà nhạt hương tàn, đêm sang canh tư
Tuổi suy yếu, thấy việc lòng dễ dính bận
Hoa đèn (như) hình người bằng hạt đậu chiếu vào (mình) không ngủ được
Nằm nghe tiếng mọt nghiến gỗ

木落亭皋風滿樓,
泬寥天氣易悲秋。
年來署雨泥塵外,
行坐怱怱不暇愁。

Bi thu
Mộc lạc đình cao phong mãn lâu,
Quyết liêu thiên khí dị bi thu.
Niên lai thử vũ nê trần ngoại,
Hành toạ thông thông bất hạ sầu.

別離無遠近,
臨老禁愁難。
欲去更回首,
川原增暮寒。

Biệt lão hữu
Biệt ly vô viễn cận,
Lâm lão cấm sầu nan.
Dục khứ cánh hồi thủ,
Xuyên nguyên tăng mộ hàn.

Dịch nghĩa
Chia tay không (nói) xa, gần
Tuổi già ngăn nỗi buồn thật khó
Muốn đi mà đầu ngoảnh lại
Vùng đồng bằng cái lạnh buổi chiều tối tăng

絕好栴檀樹
繁香迥不群
恨渠天性別
只在逆風聞

Chiên đàn thụ
Tuyệt hảo chiên đàn thụ
Phồn hương quýnh bất quần
Hận cừ thiên tính biệt
Chỉ tại nghịch phong văn.

Dịch nghĩa
Cây chiên đàn thật là cây tốt khó sánh
Hương thơm nồng nàn bất tận của cây hơn mọi loài xung quanh
Chỉ hiềm nỗi cây có thiên tính riêng
Là chỉ ở ngược chiều gió mới nghe thấy hết hương sâu.

君家江之南
妾家江之北
一葦上可杭
相見不可得

Cổ ý
Quân gia giang chi nam
Thiếp gia giang chi bắc
Nhất vĩ thượng khả hàng
Tương kiến bất khả đắc

片帆著岸傍秋山,
客思低回煙水間。
遠淚正隨黃葉下,
故人偏與白雲還。
們懷錯作相思夢,
握臂猶驚平昔顏。
我亦多愁刊未得,
對君又值暫時閒。

Cừ Khê thảo đường kỳ 1
Phiếm phàm trước ngạn bạng thu san,
Khách tứ đê hồi yên thuỷ gian.
Viễn lệ chinh tuỳ hoàng diệp hạ,
Cố nhân thiên dữ bạch vân hoàn.
Môn hoài thác tác tương tư mộng,
Ác tí do kinh bình tích nhan.
Ngã diệc đa sầu san vị đắc,
Đối quân hựu trí tạm thời nhàn

相思幾度隔關山,
夜夜相逢夢寐間。
驛路寒梅頻寄贈,
雲程倦鳥亦知還。
園林有景多乘興,
藥餌無靈不駐顏。
愁病更兼詩客遠,
書窗筆硯隔年閒。

Cừ Khê thảo đường kỳ 2
Tương tư kỳ độ cách quan san,
Dạ dạ tương phùng mộng mị gian.
Dich lộ hàn mai tân ký tặng,
Vân trình quyện điểu diệc tri hoàn.
Viên lâm hữu cảnh đa thừa hứng,
Dược nhị vô linh bất trú nhan.
Sầu bệnh cánh kiêm thi khách viễn,
Thư song bút nghiễn cách niên nhàn.

風流渾似白香山,
況有才兼伯仲間。
妙筆盡從看劍得,
佳章多在罷官還。
南窗北岳棲吟興,
泉嚮松聲護笑顏。
那得同君向別墅,
相將林下共投閒。

Cừ Khê thảo đường kỳ 3
Phong lưu hồn tụ Bạch Hương san,
Huống hữu tài kiêm Bá Trọng gian.
Diệu bút tận tòng khan kiếm đắc,
Giai chương do tại bãi quan hoàn.
Nam song bắc nhạc thê ngâm hứng,
Tuyền hưởng tùng thanh hộ tiếu nhan.
Na đắc đồng quân hướng biệt thự,
Tương tướng lâm hạ cộng đầu nhàn!

竹陰涼處夜停船,
水月江風未忍眠。
隔岸鐘樓天姥寺,
聲聲捎破遠汀煙。

Dạ bạc Nguyệt Biều
Trúc âm lương xứ dạ đình thuyền,
Thuỷ nguyệt, giang phong, vị nhẫn miên,
Cách ngạn chung lâu Thiên Mụ tự,
Thanh thanh sao phá viễn đinh yên.

Dịch nghĩa
Dưới bóng tre yên lặng, ở nơi mát mẻ, chiếc thuyền đậu lúc ban đêm,
Trăng dưới nước, gió trên sông, chưa đành ngủ,
Bờ bên kia, có lầu chuông Thiên Mụ,
Dội vang từng tiếng, phá tan làn khói ngoài xa, trên mặt sông.

醉別東門郭,
逍然心自閒。
茫茫車馬地,
明月在秋山。

Dạ bộ khẩu hào
Tuý biệt đông môn quách,
Tiêu nhiên tâm tự nhàn.
Mang mang xa mã địa,
Minh nguyệt tại thu san (sơn).

Dịch nghĩa
Đang say rời thành ngoài cửa đông
Được ung dung tự tại lòng thấy thư thái
Nơi chốn xe ngựa chỉ thấy mịt mờ
(Sao bằng) trăng sáng nơi núi mùa thu

病骨春寒怯薄衫,
故人何處達書緘。
馬鞍山月能相戀,
艷艷隨波送客帆。

Dạ độ Kiến Giang ngẫu thành
Bệnh cốt xuân hàn khiếp bạc sam,
Cố nhân hà xứ đạt thư giam.
Mã Yên sơn nguyệt năng tương luyến,
Diễm diễm tuỳ ba tống khách phàm.

Dịch nghĩa
Người bị bệnh gầy trời xuân lạnh lo sợ áo mỏng
Chẳng biết bạn cũ ở nơi nào để gửi phong thư
Vành trăng núi Yên Ngựa có lẽ đang lưu luyến nhau
Long lanh theo sóng tiễn đưa buồm khách

欸乃漁人曲,
餘音聽不窮。
正多滄海意,
況在月明中。

Dạ văn trạo ca
Ai nãi ngư nhân khúc,
Dư âm thính bất cùng.
Chính đa thương hải ý,
Huống tại nguyệt minh trung.

Dịch nghĩa
Khúc hát nhà chài theo nhịp mái chèo
Dư âm nghe mãi không dứt
Đã mang đầy ý vị của biển xanh
Huống nữa lại ngân trong ánh trăng vằng vặc

清簞疏簾得奕棋,
芙蓉花放水平池。
橘中坐隱非吾事,
未許人間熱客知。

Dịch kỳ
Thanh đạm sơ liêm đắc dịch kỳ,
Phù dung hoa phóng thuỷ bình trì.
Quất trung toạ ẩn phi ngô sự,
Vị hứa nhân gian nhiệt khách tri.

Dịch nghĩa
Trên chiếu tre mỏng, sau bức màn thưa, được chơi cờ
Cây phù dung hoa nở, dưới ao nước phẳng lặng
Ngồi ẩn trong trái quýt, không phải việc của tôi
Chưa cho người nhiệt khách ở dưới nhân gian được biết

馬首東來逢故人,
怱怱一笑忽沾巾。
如今何處無兵火,
努力家山且食貧。

Đạo phùng cố nhân
Mã thủ đông lai phùng cố nhân,
Thông thông nhất tiếu hốt triêm cân.
Như kim hà xứ vô binh hoả,
Nỗ lực gia sơn thả thực bần.

Dịch nghĩa
Ngựa đang đi về phía đông, gặp người bạn cũ
Vội vàng nở nụ cười, bỗng (nước mắt sa) đẫm khăn
Như nay có nơi nào không lửa binh
Ở quê nhà hãy cố gắng tạm sống trong cảnh thiếu thốn

相將十級上層峰,
天水茫茫思萬重。
八鎮羽書淹日月,
五年湖海有魚龍。
淩波募士方交戰,
靈太荒臺未熄烽。
嘆惜祿溪今已矣,
夕陽魚掉發思容。

Đăng Thuý Vân sơn hữu cảm
Tương tương thập cấp thướng tằng phong,
Thiên thuỷ mang mang tứ vạn trùng.
Bát trấn vũ thư yêm nhật nguyệt,
Ngũ niên hồ hải hữu ngư long.
Lăng Ba mộ sĩ phương giao chiến,
Linh Thái hoang đài vị tức phong.
Thán tích Lộc Khê kim dĩ hỹ,
Tịch dương ngư trạo phát Tư Dong (Dung).

Dịch nghĩa
Dắt tay nhau trèo từng bậc lên ngọn núi nhiều tầng
Trời nước mênh mông, ý nghĩ muôn lớp
Thư hoả tốc từ tám trấn gửi về suốt ngày suốt tháng
Năm năm giữa hồ biển có loài cá rồng
Lính ứng mộ Lăng Ba vừa mới dạy cách đánh trận
Đài hoang trên núi Linh Thái chưa tắt lửa hiệu
Than tiếc Lộc Khê nay đâu còn nữa
Trong nắng chiều thuyền cá từ cửa Tư Dung chèo ra

田廬雖小往,
野意會幽尋。
淡漠知天趣,
艱虞見道心。
曠觀無物我,
多難略浮沈。
遂此成吾願,
何由俗慮侵。

Điền lư
Điền lư tuy tiểu vãng,
Dã ý hội u tầm.
Đạm mạc tri thiên thú,
Gian ngu kiến đạo tâm.
Khoáng quan vô vật ngã,
Đa nạn lược phù trầm.
Toại thử thành ngô nguyện,
Hà do tục lự xâm.

Dịch nghĩa
Gian nhà giữa đồng ruộng tuy chỉ đến một lát
Đi tìm nơi kín sâu lại gặp được sự thư thái của tâm hồn
Giữa cảnh đạm nhạt yên tĩnh mới biết cái ý thú của thiên nhiên
Trong gian nan và lo lắng thấy được lòng đạo
Nhìn xa rộng không còn bản thân và ngoại vật
Tai nạn lớn phải chịu nhiều nổi chìm
Được thoả ý như thế này thành ước nguyện của ta
Những lo nghĩ ngoài đời còn chỗ nào để xâm nhập vào lòng được nữa

一把茅茨四面風,
稻香吹枕臥田翁。
水車揚扇東西列,
可在侯王鹵簿中。

Điền lư tiểu khế đề bích
Nhất bả mao từ tứ diện phong,
Đạo hương xuy chẩm ngoạ điền ông.
Thuỷ xa dương phiến đông tây liệt,
Khả tại hầu vương lỗ bộ trung.

Dịch nghĩa
Một nắm tranh cỏ lợp bốn phía gió lồng
Hương lúa phả vào gối ông nông dân nằm ngủ
Xe đạp nước để đầu đông, chiếc quạt lúa để đầu tây
Như thể (nằm) giữa nghi trượng bậc vương hầu

石上殘詩在,
茲人窅然去。
苔裏見鞋痕,
猶認行吟處。

Điếu Trương Độn Tẩu
Thạch thượng tàn thi tại,
Tư nhân yểu nhiên khứ.
Đài lý kiến hài ngân,
Do nhận hành ngâm xứ.

Dịch nghĩa
Trên mặt đá, bài thơ sót lại còn đó
Người ấy đã lặng lẽ đi rồi
Giữa làn rêu thấy ngấn hài
Còn nhận ra được nơi vừa đi vừa ngâm ấy

Chiến trường hựu bả điếu văn khai,
Lạp đạp biên thanh nhất nhất lai.
Quốc ngữ danh tề Manh Tả sử,
Quỷ hùng ca đáo Khuất Bình ai.
Yết can trảm mộc kham thiên cổ,
Oán hạc đề viên tính kỷ hồi.
Chí cánh thư sinh không bút trận,
Báo quân chỉ thử diệc bi tai.

手拗梅花插帽行,
樂奴橋上聽歌鶯。
回鞭遙指東華月,
並馬論詩夜入城。

Đồng thập nhất Khôn Chương, thập nhị Duy Thiện xuân du tạp hứng
Thủ ảo mai hoa sáp mạo hành,
Lạc nô kiều thượng thính ca oanh.
Hồi tiên dao chỉ đông hoa nguyệt,
Tịnh mã luận thi dạ nhập thành.

楚楚東園花
莫喜春風作
今日她吹開
明日她吹落

Đông viên hoa
Sở sở đông viên hoa
Mạc ngôn xuân phong tác
Kim nhật tha xuy khai
Minh nhật tha xuy lạc

漠漠川光晚,
少頭欲上潮。
客堂樓喚渡,
地取是名橋。
歸騎隨紜合,
清歌倚月嬌。
隔江娪宅在,
末可屬經橈。

Gia Hội độ
Mạc mạc xuyên quang vãn,
Thiểu đầu dục thượng triều.
Khách đường lâu hoán độ,
Địa thủ thị danh kiều.
Quy kỵ tuỳ vân hợp,
Thanh ca ỷ nguyệt kiều.
Cách giang ngô trạch tại,
Mạt khả chú kinh nhiêu.

江村僻陋無絲管,
聽水聽風耳自清。
不識彈綿茅屋氐,
晚涼忽怪有琴聲。

Giang thôn kỳ 1
Giang thôn tịch lậu vô ty quản,
Thính thuỷ thính phong nhĩ tự thanh.
Bất thức đạn miên mao ốc để,
Vãn lương hốt quái hữu cầm thanh.

Dịch nghĩa
Xóm phá hẻo lánh quê mùa, không có đàn sáo
Nghe tiếng nước tiếng gió, tai tự sạch trong
Không biết dưới mái nhà tranh đang bắn bông
Bỗng ngạc nhiên, trong hơi mát chiều hôm lại có tiếng đàn

Trên đây, uct.edu.vn đã dành tặng cho bạn chùm thơ đặc sắc của nhà thơ Tùng Thiện Vương. Ông là một nhà thơ nổi tiếng được nhiều bạn đọc yêu mến. Hy vọng các bạn sẽ yêu thích bài viết này của chúng tôi. Mời các bạn đón xem phần 2 vào một ngày gần nhất. Cảm ơn các bạn đã theo dõi bài viết này của chúng tôi ! 

Related posts

Nhà thơ Thái Bá Tân và tuyển tập thơ dịch Vladimirovich Mikhalkov

admin

Nhà thơ La Fontaine và trọn bộ trang thơ ấn tượng nhất phần 3

admin

Phan Bội Châu Cùng Tập Thơ Chữ Hán Đi Cùng Năm Tháng

admin

Leave a Comment