Thơ Hay

Tập Thơ Chữ Hán vang danh của nhà thơ Hồ Chí Minh phần 5

Những trang thơ chữ hán của Hồ Chí Minh được bạn đọc yêu thích và ca ngợi sâu sắc. Với tri thức sâu rộng như những đốm lửa hồng chỉ chờ một ngọn gió là thổi bùng lên thành những ngọn lửa rực hồng trong thi ca trong Hồ Chí Minh. Ông có lối thơ cùng sự hiểu biết hơn người nên những bài thơ chữ hán của ông mang những giá trị cao cả. Đừng ngần ngại, hãy theo dõi cùng chúng tôi nhé!

Nội Dung

家家結綵與張燈,
國慶歡聲舉國騰。
我卻今天被綁解,
逆風有意阻飛鵬。

Song thập nhật giải vãng Thiên Bảo

Gia gia kết thái dữ trương đăng,
Quốc khánh hoan thanh cử quốc đằng.
Ngã khước kim thiên bị bang giải,
Nghịch phong hữu ý trở phi bằng.

Dịch nghĩa

Nhà nào nhà ấy kết hoa và treo đèn,
Cả nước reo vui, mừng ngày quốc khánh.
Thế mà hôm nay ta bị trói giải đi,
Ngọn gió ngược cố ý cản đôi cánh chim bằng.

走路才知走路難,
重山之外又重山。
重山登到高峰後,
萬里與圖顧盼間。

Tẩu lộ

Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan
Trùng san chi ngoại hựu trùng san
Trùng san đăng đáo cao phong hậu
Vạn lý dư đồ cố miện gian.

Dịch nghĩa

Có đi đường mới biết đường đi khó,
Hết lớp núi này lại tiếp đến lớp núi khác;
Khi đã vượt các lớp núi lên đến đỉnh cao chót,
Thì muôn dặm nước non thu cả vào tầm mắt.

倦鳥歸林尋宿樹,
孤雲慢慢度天空。
山村少女磨包粟,
包粟磨完爐已烘。

Mộ

Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,
Cô vân mạn mạn độ thiên không.
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng.

Dịch nghĩa

Chim mỏi về rừng tìm cây ngủ,
Chòm mây lẻ trôi lững lờ trên tầng không;
Thiếu nữ xóm núi xay ngô,
Ngô xay vừa xong, lò than đã đỏ.

白天雙馬不停蹄,
夜晚嘗嘗五味雞。
虱冷乘機來夾擊,
隔鄰欣聽曉鶯啼。

Dạ túc Long Tuyền

Bạch thiên “song mã” bất đình đề,
Dạ vãn thường thường “ngũ vị kê”.
Sắt lãnh thừa cơ lai giáp kích,
Cách lân hân thính hiểu oanh đề.

Dịch nghĩa

Suốt ngày “đôi ngựa” không ngừng vó,
Đêm đến, lại từng nếm món “gà năm vị”.
Rệp và rét thừa cơ xông vào tập kích,
Mừng nghe xóm bên, chim oanh hót báo sáng.

每餐一碗公家粥,
肚子時時在嘆吁。
白飯三元不鉤飽,
薪如桂也米如珠。

Điền Đông

Mỗi xan nhất uyển công gia chúc,
Đỗ tử thì thì tại thán hu.
Bạch phạn tam nguyên bất câu bão,
Tân như quế dã mễ như châu.

Dịch nghĩa

Mỗi bữa được một bát cháo của nhà nước,
Cái bụng luôn luôn than phiền;
Cơm không ba đồng chẳng đủ no,
Củi đắt như quế, gạo như châu.

日行五十三公里,
濕盡衣冠破盡鞋。
徹夜又無安睡處,
廁坑上坐待朝來。

Sơ đáo Thiên Bảo ngục

Nhật hành ngũ thập tam công lý,
Thấp tận y quan phá tận hài.
Triệt dạ hựu vô an thuỵ xứ,
Xí khanh thượng toạ đại triêu lai.

Dịch nghĩa

Ngày đi năm mươi ba cây số,
Ướt hết mũ áo, rách hết giày;
Suốt đêm lại không có chỗ ngủ yên,
Ngồi trên hố xí đợi trời sáng.

君在銕窗裡,
妾在銕窗前。
相近在咫尺,
相隔似天淵。
口不能說的,
只賴眼傳言。
未言淚已滿,
情景真可憐。

Nạn hữu chi thê thám giam

Quân tại thiết song lý,
Thiếp tại thiết song tiền.
Tương cận tại chỉ xích,
Tương cách tự thiên uyên.
Khẩu bất năng thuyết đích,
Chỉ lại nhãn truyền nghiên.
Vị ngôn lệ dĩ mãn,
Tình cảnh chân khả liên!

Dịch nghĩa

Chàng ở trong song sắt,
Thiếp ở ngoài song sắt.
Gần nhau chỉ tấc gang,
Mà cách nhau trời vực.
Miệng không thốt lên lời,
Chuyển lời nhờ khoé mắt.
Chưa nói nước mắt tràn,
Tình cảnh thật đáng thương!

同是中國友,
同是要赴渝。
君為坐上客,
我為階下囚。
同是代表也,
待遇胡懸殊。
人情分冷熱,
自古水東流。

Các báo: Hoan nghênh Uy-ki Đại hội

Đồng thị Trung Quốc hữu,
Đồng thị yếu phó Du.
Quân vi toạ thượng khách,
Ngã vi giai hạ tù.
Đồng thị đại biểu dã,
Đãi ngộ hồ huyền thù?
Nhân tình phân lãnh nhiệt,
Tự cổ thuỷ đông lưu.

Dịch nghĩa

Cùng là bạn Trung Hoa,
Cùng phải đi Trùng Khánh.
Anh là khách ngồi trên,
Tôi là tù dưới thềm.
Cùng là đại biểu cả,
Đối đãi sao quá khác biệt?
Thói đời thường phân ấm lạnh,
Từ xưa nước vẫn chảy về đông!

没有冬寒憔悴景,
將無春暖的輝煌。
災殃把我來鍛鍊,
使我精神更健強。

Tự miễn

Một hữu đông hàn tiều tuỵ cảnh,
Tương vô xuân noãn đích huy hoàng.
Tai ương bả ngã lai đoàn luyện,
Sử ngã tinh thần cách kiện cường.

Dịch nghĩa

Không có cảnh mùa đông tiêu điều rét mướt,
Sẽ không có mùa xuân ấm áp huy hoàng;
Tai ương rèn luyện ta,
Khiến cho tinh thần ta càng thêm hăng hái.

我來之時禾尚青,
現在秋收半已成。
處處農民顏帶笑,
田間充滿唱歌聲。

Dã cảnh

Ngã lai chi thì hoà thượng thanh,
Hiện tại thu thu bán dĩ thành.
Xứ xứ nông dân nhan đới tiếu,
Điền gian sung mãn xướng ca thanh.

Dịch nghĩa

Lúc ta đến lúa còn xanh,
Nay vụ gặt đã xong một nửa;
Nơi nơi nông dân mặt mày hớn hở,
Ruộng đồng tràn đầy tiếng ca hát.

路旁樹影涼陰下,
一椽茅蘆是酒樓。
冷粥白鹽供食譜,
行人過此暫停留。

Chúc than

Lộ bàng thụ ảnh lương âm hạ,
Nhất chuyến mao lư thị “tửu lâu”.
Lãnh chúc bạch diêm cung thực phổ,
Hành nhân quá thử tạm đình lưu.

Dịch nghĩa

Dưới bóng cây râm mát bên đường,
Một túp lều tranh: ấy là “tiệm rượu”;
Cháo nguội và muối trắng làm thành thực đơn,
Khách đi đường qua đây tạm dừng nghỉ.

監房也是小家庭,
柴米油鹽自己營。
每個籠前一個灶,
成天煮飯與調羹。

Quả Đức ngục

Giam phòng dã thị tiểu gia đình,
Sài mễ du diêm tự kỷ doanh.
Mỗi cá lung tiền nhất cá táo,
Thành thiên chử phạn dữ điều canh.

Dịch nghĩa

Phòng giam cũng là một gia đình nhỏ,
Gạo, củi, dầu, muối, đều tự mình lo sắm;
Trước mỗi phòng giam là một bếp,
Suốt ngày thổi cơm và nấu canh.

辯事認真劉所長,
人人讚誦你公平。
文錢粒米都公布,
乾凈囚籠好衛生。

Long An Lưu Sở trưởng

Biện sự nhận chân Lưu Sở trưởng
Nhân nhân tán tụng nhĩ công bình
Văn tiền lạp mễ đô công bố
Can tịnh tù lung hảo vệ sinh.

Dịch nghĩa

Sở trưởng họ Lưu giải quyết công việc thận trọng, đúng đắn,
Mọi người đều khen ông công bằng;
Đồng tiền, hạt gạo đều công bố,
Nhà lao sạch sẽ hợp vệ sinh.

一次雞啼夜未闌,
群星擁月上秋山。
征人已在征途上,
迎面秋風陣陣寒。
東方白色已成紅,
幽暗殘餘早一空。
暖氣包羅全宇宙,
行人詩興忽加濃。

Tảo giải

Nhất thứ kê đề dạ vị lan,
Quần tinh ủng nguyệt thướng thu san.
Chinh nhân dĩ tại chinh đồ thượng,
Nghênh diện thu phong trận trận hàn.
Đông phương bạch sắc dĩ thành hồng,
U ám tàn dư tảo nhất không.
Noãn khí bao la toàn vũ trụ,
Hành nhân thi hứng hốt gia nồng.

Dịch nghĩa

Gà gáy một lần, đêm chưa tàn,
Chòm sao nâng vầng trăng lên đỉnh núi mùa thu;
Người đi xa đã cất bước trên đường xa,
Gió thu táp mặt từng cơn từng cơn lạnh lẽo.
Phương đông màu trắng chuyển thành hồng,
Bóng đêm còn rơi rớt sớm đã hết sạch;
Hơi ấm bao la khắp vũ trụ,
Người đi thi hứng bỗng thêm nồng.

同正正同平馬獄,
每餐一粥肚空空。
水和光線彶充足,
每日還開兩次籠。

Đồng Chính (thập nhất nguyệt nhị nhật)

Đồng Chính chính đồng Bình Mã ngục,
Mỗi xan nhất chúc đỗ không không.
Thuỷ hoà quang tuyến hân sung túc,
Mỗi nhật hoàn khai lưỡng thứ lung.

Dịch nghĩa

Nhà lao Đồng Chính giống hệt nhà lao Bình Mã,
Mỗi bữa một bát cháo, bụng thường rỗng không.
Nước và ánh sáng thì đầy đủ,
Mỗi ngày còn hai lần mở cửa buồng giam.

舊卷新書相補綴,
紙氈猶煖過無氈。
玉床錦帳人知否,
獄裡許多人不眠。

Nạn hữu đích chỉ bị

Cựu quyển tân thư tương bổ xuyết,
Chỉ chiên do noãn quá vô chiên.
Ngọc sàng cẩm trướng nhân tri phủ,
Ngục lý hứa đa nhân bất miên?

Dịch nghĩa

Quyển cũ, sách mới cùng bồi chắp lại,
Chăn giấy còn ấm hơn không có chăn;
Người trên giường ngọc trướng gấm có biết chăng,
Trong ngục bao nhiêu người không ngủ?

秋深無褥亦無氈,
縮脛弓腰不可眠。
月照庭蕉增冷氣,
窺窗北斗已橫天。

Dạ lãnh

Thu thâm vô nhục diệc vô chiên,
Súc hĩnh cung yêu bất khả miên.
Nguyệt chiếu đình tiêu tăng lãnh khí,
Khuy song Bắc Đẩu dĩ hoành thiên.

Dịch nghĩa

Đêm cuối thu không đệm cũng không chăn,
Nằm co cẳng cong lưng vẫn không ngủ được;
Trăng soi khóm chuối trước sân càng tăng thêm khí lạnh,
Nhòm qua cửa sổ, sao Bắc Đẩu đã ngang trời.

脛臂長龍環繞著,
宛如外國武勳官。
勳官的是金緦線,
我的麻繩一大端。

Bang

Hĩnh tí trường long hoàn nhiễu trước,
Uyển như ngoại quốc vũ huân quan.
Huân quan đích thị kim ti tuyến,
Ngã đích ma thằng nhất đại đoan.

Dịch nghĩa

Rồng dài quấn quanh cẳng chân và cánh tay,
Giống hệt dây tua quan võ nước ngoài.
Dây tua quan võ là tơ kim tuyến,
Còn của ta là một sợi thừng gai lớn.

你的心情硬且剛,
不如老舌軟而長。
從來與你同甘苦,
現在東西各一方。
Lạc liễu nhất chích nha
Nhĩ đích tâm tình ngạch thả cương,
Bất như lão thiệt nhuyễn nhi trường.
Tòng lai dữ nhĩ đồng cam khổ,
Hiện tại đông tây các nhất phương.
Dịch nghĩa
Tính tình anh rắn rỏi và kiên cường,
Chẳng mềm và dài như lão lưỡi;
Trước nay vẫn cùng anh chung ngọt bùi, cay đắng,
Bây giờ phải xa nhau, người một phương.

Những bài thơ đường luật làm bằng chữ hán của Hồ Chí Minh là những hòn ngọc văn hóa chói lọi trong di sản văn hóa vĩ đại của dân tộc ta. Qua đó ta thêm ngưỡng mộ sự hiểu biết cùng những lối thơ đầy độc đáo của ông. Mời các bạn đón xem phần 6 vào một ngày không xa!

Xem Thêm: Tập Thơ Chữ Hán vang danh của nhà thơ Hồ Chí Minh phần 4

Related posts

Bài thơ Hoa súng ao nhà – Nhà thơ Nguyễn Đình Huân

admin

Bài thơ Chuyện Tình Trước Biển – Nhà thơ Phú Sĩ

admin

Bài thơ Kẻ Thứ Ba – Nhà thơ Dương Hoàng

admin

Leave a Comment