Nhà Thơ Nổi Tiếng

Tô Đông Pha (Tô Thức) – Tuyển tập những bài thơ lẻ hay nhất

Tô Đông Pha tên thật là Tô Thức, ông sinh năm 1037 và mất năm 1101. Ông có tự là Tử Chiên, Hòa Trọng và hiệu là Đông Pha cư sĩ và đó cũng chính là nguồn gốc của tên gọi Tô Đông Pha. Từ nhỏ ông đã nổi tiếng là người học giỏi và có tài năng nên đã đảm nhiệm nhiều chức trách quan trọng trong triều chính. Có thể nói cả cuộc đời của mình, ông đã viết rất nhiều thơ. Với số lượng 4000 bài thơ, 300 bài từ, tản văn cũng có nhiều bài hay. Dưới đây là những bài thơ hay nhất của Tô Đông Pha mà chúng tôi đã chọn lọc và giới thiệu với bạn.

Nội Dung

是歲十月之望,步自雪堂,將歸於臨皋。二客從予,過黃泥之阪。霜露既降,木葉盡脫,人影在地,仰見明月。顧而樂之,行歌相答。

已而歎曰:「有客無酒,有酒無肴;月白風清,如此良夜何?」客曰:「今者薄暮,舉網得魚,巨口細鱗,狀如松江之鱸。顧安所得酒乎?」歸而謀諸婦。婦曰:「我有鬥酒,藏之久矣,以待予不時之需。」

於是攜酒與魚,複遊於赤壁之下。江流有聲,斷岸千尺。山高月小,水落石出。曾日月之幾何,而江山不可複識矣。予乃攝衣而上,履巉岩,披蒙茸,踞虎豹,登虯龍;攀棲鶻之危巢,俯馮夷之幽宮。蓋二客不能從焉。劃然長嘯,草木震動,山鳴谷應,風起水湧。餘亦悄然而悲肅然而恐,凜乎其不可留也。返而登舟,放乎中流,聽其所止而休焉。時夜將半,四顧寂寥。適有孤鶴,橫江東來,翅如車輪,玄裳縞衣,戛然長鳴,掠予舟而西也。

須臾客去予亦就睡。夢一道士,羽衣蹁躚,過臨皋之下,揖予而言曰:「赤壁之遊樂乎?」問其姓名,俯而不答。「嗚呼噫嘻!我知之矣。團昔之夜,飛鳴而過我者,非予也耶?」道士顧笑,予亦驚悟。開戶視之,不見其處。

Thị tuế thập nguyệt chi vọng, bộ tự Tuyết Đường, tương quy ư Lâm Cao. Nhị khách tòng dư, quá Hoàng Nê chi phản. Sương lộ ký giáng, mộc diệp tận thoát, nhân ảnh tại địa, ngưỡng kiến minh nguyệt. Cố nhi lạc chi, hành ca tương đáp.

Dĩ nhi thán viết: “Hữu khách vô tửu, hữu tửu vô hào; nguyệt bạch phong thanh, như thử lương dạ hà?” Khách viết: “Kim giả bạc mộ, cử võng đắc ngư, cự khẩu tế lân, trạng như Tùng giang chi lô. Cố an sở đắc tửu hồ?” Quy nhi mưu chư phụ. Phụ viết: “Ngã hữu đấu tửu, tàng chi cửu hĩ, dĩ đãi dư bất thì chi nhu.”

Ư thị huề tửu dữ ngư, phức du ư Xích Bích chi hạ. Giang lưu hữu thanh, đoạn ngạn thiên xích. Sơn cao nguyệt tiểu, thuỷ lạc thạch xuất. Tằng nhật nguyệt chi kỷ hà, nhi giang sơn bất khả phức thức hĩ. Dư nãi nhiếp y nhi thượng, lý sàm nham, phi mông nhung, cứ hổ báo, đăng cầu long; phan thê cốt chi nguy sào, phủ Phùng Di chi u cung. Cái nhị khách bất năng tòng yên. Hoạch nhiên trường khiếu, thảo mộc chấn động, sơn minh cốc ưng, phong khởi thuỷ dũng. Dư diệc tiễu nhiên nhi bi túc nhiên nhi khủng, lẫm hồ kỳ bất khả lưu dã. Phản nhi đăng chu, phóng hồ trung lưu, thính kỳ sở chỉ nhi hưu yên. Thì dạ tương bán, tứ cố tịch liêu. Thích hữu cô hạc, hoành giang đông lai, sí như xa luân, huyền thường cảo y, kiết nhiên trường minh, lược dư chu nhi tây dã.

Tu du khách khứ dư diệc tựu thuỵ. Mộng nhất đạo sĩ, vũ y biên tiên, quá Lâm Cao chi hạ, ấp dư nhi ngôn viết: “Xích Bích chi du lạc hồ?” Vấn kỳ tính danh, phủ nhi bất đáp. “Ô hô y hy! Ngã tri chi hĩ. Đoàn tích chi dạ, phi minh nhi quá ngã giả, phi dư dã gia?” Đạo sĩ cố tiếu, dư diệc kinh ngộ. Khai hộ thị chi, bất kiến kỳ xứ.

Ngày mười rằm tháng mười năm ấy, từ nhà Tuyết Đường ra đi, để về đình Lâm Cao. Hai người khách theo ta, qua giốc Hoàng Nê, sương móc đã xuống, lá cây rụng hết, bóng người ở dưới đất, ngửa trông lên thấy trăng sáng. Nhìn nhau vui vẻ, vừa đi vừa hát, người hát kẻ hát theo.

Rồi mà than rằng: “Có khách không có rượu, có rượu không có nhắm; trăng trong gió mát, đêm đẹp này biết làm thế nào?” Khách nói: “Buổi chiều hôm nay, nhắc lưới được cá, miệng lớn vây nhỏ, dáng như cá lô sông Tùng. Biết làm sao cho có rượu!” Về nhà bàn với vợ. Vợ nói: “Tôi có một đấu rượu, cất đi từ lâu, để đợi ông bất thần dùng đến.”

Rồi thì mang rượu và cá, lại đi chơi dưới núi Xích Bích. Có tiếng nước sông chảy, cách bờ xa nghìn thước. Núi như cao, trăng như nhỏ. Nước cạn đá chìa ra, trải ngày tháng chưa bao nhiêu, mà non sông (chỗ chơi trước) không nhận ra được nữa. Ta đành vén áo mà trèo lên, bước lên đá lởm chởm, rẽ đám cỏ rậm, ngồi lên (tảng đá hình) hổ báo, trèo lên (cành cây vòng như) con rồng, với tổ chim cắt chỗ chênh vênh, cúi xuống nhìn (Thuỷ cung) Bằng Di tối om. Chừng hai người khách không thể theo được, quát lên gọi to, cây cỏ rung động, núi hang vang lên, gió nổi nước bắn tung toé. Ta cũng nao núng mà buồn, nghiêm lặng mà sợ, ghê rợn không thể ở lại nữa. Trở ra mà lên thuyền, buông ra giữa dòng sông, mong đến chỗ dừng thuyền mà nghỉ ngơi. Lúc ấy gần nửa đêm, bốn bề vắng vẻ, chợt có một con hạc, bay ngang sông từ phía đông lại, cánh xoè như bánh xe, xiêm đen áo trắng, vụt nhiên kêu lên, lướt qua thuyền ta mà đi về hướng tây.

Chốc lát khách ra về, ta cũng đi ngủ. Mơ thấy một Đạo sĩ, áo lông (loài chim) phơi phới, đi qua dưới đình Lâm Cao, vái chào ta mà hỏi: “Đi chơi Xích Bích có vui không?” Ta hỏi tên họ, cúi đầu mà không trả lời. “Hỡi ơi ha ha! Ta đã biết rồi, liệu lúc đêm vừa đây, bay kêu qua thuyền ta, chẳng phải nhà ngươi đấy ư?” Đạo sĩ nhìn ta cười, ta cũng giật mình tỉnh dậy. Mở cửa trông ra, chẳng thấy đâu cả.

熙寧十年秋,彭城大水,雲龍山人張君之草堂,水及其半扉。明年春,水落,遷於故居之東,東山之麓。升高而望,得異境焉,作亭於其上。彭城之山,岡嶺四合,隱然如大環,獨缺七十二,而山人之亭適當其缺。春夏之交,草木際天;秋冬雪月,千里一色,風雨晦明之間,俯仰百變。

山人有二鶴,甚馴而善飛,旦則望西山之缺而放焉。從其所如,或立於陂田,或翔於雲表。暮則傃東山而歸,故名之曰放鶴亭。

郡守蘇軾,時從賓客僚吏往見山人,飲酒於斯亭而樂之。揖山人而告之曰:「子知隱居之樂乎?雖南面之君未可與易也。易曰:『鳴鶴在陰,其子和之。』詩曰:『鶴鳴於九皋,聲聞於天。』蓋其為物,清遠閒放,超然於塵垢之外。故易詩以比賢人君子隱德之士,狎而玩之,宜若有益而無損者。然衛懿公好鶴,則亡其國。周公作酒誥,衛武公作抑戒,以為荒惑敗亂無若酒者;而劉伶阮籍之徒,以此全其真而名後世。嗟夫!南面之君,雖清遠閒放如鶴者猶不得好,好之則亡其國。而山林遁世之士,雖荒惑敗亂如酒者猶不能為害,而況於鶴乎?由此觀之,其為樂未可以同日而語也。」

山人欣然而笑,曰:「有是哉!」乃作放鶴招鶴之歌,曰:
鶴飛去兮,西山之缺,
高翔而下覽兮,擇所適。
翻然斂翼,宛將集兮,
忽何所見,矯然而復擊。
獨終日於澗谷之間兮,
啄蒼苔而履白石。

鶴歸來兮,東山之陰,
其下有人兮,黃冠草履葛衣而鼓琴。
躬耕而食兮,其餘以飽汝,
歸來,歸來兮,西山不可以久留!

元豐元年十一月初八日記。

Hy Ninh thập niên thu, Bành Thành đại thuỷ, Vân Long sơn nhân Trương quân chi thảo đường, thuỷ cập kỳ bán phi. Minh niên xuân, thuỷ lạc, thiên ư cố cư chi đông, đông sơn chi lộc. Thăng cao nhi vọng, đắc dị cảnh yên, tác đình ư kỳ thượng. Bành Thành chi sơn, cương lĩnh tứ hợp, ẩn nhiên như đại hoàn, độc khuyết thất thập nhị, nhi sơn nhân chi đình thích đương kỳ khuyết. Xuân hạ chi giao, thảo mộc tế thiên; thu đông tuyết nguyệt, thiên lý nhất sắc, phong vũ hối minh chi gian, phủ ngưỡng bách biến.

Sơn nhân hữu nhị hạc, thậm tuần nhi thiện phi, đán tắc vọng tây sơn chi khuyết nhi phóng yên. Tòng kỳ sở như, hoặc lập ư pha điền, hoặc tường ư vân biểu. Mộ tắc tố đông sơn nhi quy, cố danh chi viết Phóng Hạc đình.

Quận thú Tô Thức, thời tòng tân khách liêu lại vãng kiến sơn nhân, ẩm tửu ư tư đình nhi lạc chi. Ấp sơn nhân nhi cáo chi viết: “Tử tri ẩn cư chi lạc hồ? Tuy nam diện chi quân vị khả dữ dịch dã. Dịch viết: “Minh hạc tại âm, kỳ tử hoạ chi.” Thi viết: “Hạc minh ư cửu cao, thanh văn ư thiên.” Cái kỳ vi vật, thanh viễn nhàn phóng, siêu nhiên ư trần cấu chi ngoại. Cố Dịch, Thi dĩ tỷ hiền nhân quân tử ẩn đức chi sĩ, hiệp nhi ngoạn chi, nghi nhược hữu ích nhi vô tổn giả. Nhiên vệ ý công hiếu hạc, tắc vong kỳ quốc. Chu Công tác Tửu Cáo, Vệ Vũ Công tác Ức giới, dĩ vi hoang hoặc bại loạn vô nhược tửu giả; nhi Lưu Linh, Nguyễn Tịch chi đồ, dĩ thử toàn kỳ chân nhi danh hậu thế. Ta phù! Nam diện chi quân, tuy thanh viễn nhàn phóng như hạc giả do bất đắc hiếu, hiếu chi tắc vong kỳ quốc. Nhi sơn lâm độn thế chi sĩ, tuy hoang hoặc bại loạn như tửu giả do bất năng vi hại, nhi huống ư hạc hồ? Do thử quan chi, kỳ vi lạc vị khả dĩ đồng nhật nhi ngữ dã.”

Sơn nhân hân nhiên nhi tiếu, viết: “Hữu thị tai!” Nãi tác Phóng hạc chiêu hạc chi ca, viết:
Hạc phi khứ hề, tây sơn chi khuyết,
Cao tường nhi hạ lãm hề, trạch sở thích.
Phiên nhiên liễm dực, uyển tương tập hề,
Hốt hà sở kiến, kiểu nhiên nhi phục kích.
Độc chung nhật ư giản cốc chi gian hề,
Trác thương đài nhi lý bạch thạch.

Hạc quy lai hề, đông sơn chi âm,
Kỳ hạ hữu nhân hề, hoàng quán thảo lý cát y nhi cổ cầm.
Cung canh nhi thực hề, kỳ dư dĩ bão nhữ,
Quy lai, quy lai hề, tây sơn bất khả dĩ cửu lưu!

Nguyên Phong nguyên niên thập nhất nguyệt sơ bát nhật ký.

壬戌之秋,七月既望,蘇子與客泛舟遊於赤壁之下。清風徐來,水波不興。舉酒屬客,誦明月之詩,歌窈窕之章。少焉,月出於東山之上,徘徊於斗牛之間。白露橫江,水光接天。縱一葦之所如,凌萬頃之茫然。浩浩乎如馮虛御風,而不知其所止;飄飄乎如遺世獨立,羽化而登仙。於是飲酒樂甚,扣舷而歌之。歌曰︰
「桂棹兮蘭槳,
擊空明兮泝流光。
渺渺兮於懷,
望美人兮天一方。」

客有吹洞蕭者,倚歌而和之,其聲嗚嗚然,如怨如慕,如泣如訴;餘音裊裊,不絕如縷;舞幽壑之潛蛟,泣孤舟之嫠婦。

蘇子愀然,正襟危坐,而問客曰︰
「何為其然也?」

客曰︰
「月明星稀,烏鵲南飛,此非曹孟德之詩乎?西望夏口,東望武昌。山川相缪,鬱乎蒼蒼;此非孟德之困於周郎者乎?方其破荊州,下江陵,順流而東也,舳艫千里,旌旗蔽空,釃酒臨江,橫槊賦詩;固一世之雄也,而今安在哉?況吾與子,漁樵於江渚之上,侶魚蝦而友糜鹿,駕一葉之扁舟,舉匏樽以相屬;寄蜉蝣與天地,渺滄海之一粟。哀吾生之須臾,羨長江之無窮;挾飛仙以遨遊,抱明月而長終;知不可乎驟得,托遺響於悲風。」

蘇子曰︰
「客亦知夫水與月乎?逝者如斯,而未嘗往也;盈虛者如彼,而卒莫消長也。蓋將自其變者而觀之,而天地曾不能一瞬;自其不變者而觀之,則物與我皆無盡也。而又何羨乎?且夫天地之間,物各有主。苟非吾之所有,雖一毫而莫取。惟江上之清風,與山間之明月,耳得之而為聲,目遇之而成色。取之無盡,用之不竭。是造物者之無盡藏也,而吾與子之所共適。」

客喜而笑,洗盞更酌,肴核既盡,杯盤狼藉。相與枕藉乎舟中,不知東方之既白。

Nhâm Tuất chi thu, thất nguyệt ký vọng, Tô tử dữ khách phiếm chu du ư Xích Bích chi hạ. Thanh phong từ lai, thuỷ ba bất hứng, cử tửu chúc khách, tụng Minh Nguyệt chi thi, ca Yểu Điệu chi chương. Thiểu yên, nguyệt xuất ư đông sơn chi thượng, bồi hồi ư Đẩu Ngưu chi gian, bạch lộ hoành giang, thuỷ quang tiếp thiên. Túng nhất vĩ chi sở như, lăng vạn khoảnh chi mang nhiên. Hạo hạo hồ như bằng hư ngự phong, nhi bất tri kỳ sở chỉ; phiêu phiêu hồ như di thế độc lập, vũ hoá nhi đăng tiên. Ư thị ẩm tửu lạc thậm, khấu huyền nhi ca chi. Ca viết:
“Quế trạo hề lan tương,
Kích không minh hề tố lưu quang,
Diểu diểu hề ư hoài,
Vọng mỹ nhân hề thiên nhất phương”.

Khách hữu xuý đổng tiêu giả, ỷ ca nhi hoạ chi; kỳ thanh ô ô nhiên, như oán như mộ, như khấp như tố, dư âm niểu niểu bất tuyệt như lũ. Vũ u hác chi tiềm giao, khấp cô chu chi ly phụ.

Tô tử sậu nhiên chính khâm, nguy toạ nhi vấn khách, viết:

Hà vi kỳ nhiên dã?

Khách viết:

“Nguyệt minh tinh hi, ô thước nam phi”, thử phi Tào Mạnh Đức chi thi hồ? Tây vọng Hạ Khẩu, đông vọng Vũ Xương, sơn xuyên tương mâu, uất hồ thương thương, thử phi Mạnh Đức chi khốn ư Chu Lang giả hồ? Phương kỳ phá Kinh Châu, hạ Giang Lăng, thuận lưu nhi đông dã, trục lô thiên lý, tinh kỳ tế không, sái tửu Lâm giang, hoành sáo phú thi, cố nhất thế chi hùng dã, nhi kim an tại tai? Huống ngô dữ tử, ngư tiều ư giang chử chi thượng, lữ ngư hà nhi hữu mi lộc, giá nhất diệp chi thiên chu, cử bào tôn dĩ tương chúc, ký phù du ư thiên địa, diểu thương hải chi nhất túc, ai ngô sinh chi tu du, tiện Trường Giang chi vô cùng, hiệp phi tiên dĩ ngao du, bão minh nguyệt nhi trường chung. Tri bất khả hồ sậu đắc, thác di hưởng ư bi phong.

Tô tử viết:

Khách diệc tri phù thuỷ dữ nguyệt hồ? Thệ giả như tư nhi vị thường vãng dã; doanh hư giả như bỉ nhi tốt mạc tiêu trưởng dã. Cái tương tự kỳ biến giả nhi quan chi, nhi thiên địa tằng bất năng dĩ nhất thuấn. Tự kỳ bất biến giả nhi quan chi, tắc vật dữ ngã giai vô tận dã, nhi hựu hà tiển hồ? Thả phù thiên địa chi gian, vật các hữu chủ, cẩu phi ngô chi sở hữu, tuy nhất hào nhi mạc thủ. Duy giang thượng chi thanh phong, dữ sơn gian chi minh nguyệt, nhĩ đắc chi nhi vi thanh, mục ngộ chi nhi thành sắc, thủ chi vô cấm, dụng chi bất kiệt, thị tạo vật giả chi vô tận tàng dã, nhi ngô dữ tử chi sở cộng thích.

Khách hỉ nhi tiếu, tẩy trản cánh chước. Hào hạch ký tận, bôi bàn lang tạ, tương dữ chẩm tạ hồ chu trung, bất tri đông phương chi ký bạch.

Trên đây là các bài thơ lẻ hay nhất của Tô Đông Pha. Ông sáng tác nhiều nhưng phần lớn các bài thơ đã bị thất lạc. Qua các bài thơ này ta có thể hiểu thêm được về tài năng của nhà thơ này. Cũng như những tư tưởng mà ông muốn gửi gắm trong những tập thơ của mình. Đừng quên đón đọc những bài viết tiếp theo của chúng tôi để cùng cập nhật các bài thơ của Tô Đông Pha hay nhất bạn nhé!

Related posts

Nguyễn Trãi với tập thơ Môn hoa mộc – Vẻ đẹp của cỏ cây, hoa lá

admin

Chế Lan Viên Cùng Tập Thơ “Hoa Trước Lăng Người (1976)” Đặc Sắc

admin

Thơ Bích Hoàng – Chùm thơ viết về hoa và xứ Huế hay nhất

admin

Leave a Comment