Nhà Thơ Nổi Tiếng

Trọn bộ những bài thơ hay nhất của nhà thơ Yến Lan phần 1

Nhà thơ Yến Lan là một người được đông đảo bạn đọc biết đến và yêu thích với những trang thơ vô cùng ấn tượng. Ông nổi tiếng rất sớm với nhiều bài thơ đượm phong vị cổ điển, liêu trai. Những bài thơ của ông vẫn còn in dấu trong lòng người đọc hôm nay. Những bài thơ mang đậm tình người tình đời sâu sắc lay động triệu trái tim bạn đọc. Hãy cùng chúng tôi theo dõi bài viết này nhé!

Nội Dung

Ơi An Lão – tên hằng ngày nhắc nhở
Khi cá đang kho, lúc cau vừa bổ
Thường bữa cơm sập tối dưới hoàng hôn
Những tháng đông về mẹ nhớ áo cho con.
Tên mảnh đất – non cao che lũng thấp
Ôm nương rẫy nắng vàng theo màu sáp
Vị hồ tiêu trát ấm cả trung châu
Toả hơi say rời bến những thuyền trầu
Từ đồn trại giặc chen ngang tiếp dọc
Chín, mùa trái bỗng úng mùi chết chóc
Tiếng tù và bẵng gọi đá khe hang
Đàn vẹt thôi về nhuộm lục mùa săn.
Đường họp chợ biến ra đường áp giải
Bòng bưởi quăn queo, guồng xe ngấc ngoải
Vại dầu nghiêng, khung cửi mục bên đìa
Dừa sả tàu mỗi băng đạn tuần khuya.
Đất An Lão đâu nằm im chịu giặc
Rẫy – dứa – hầm – chông, ngọn – cau – liên – lạc
Anh cầm cày, chị bắt ốc ven sông
Đặt bẫy, gài mìn chờ cuộc phản công.
Bỗng chới với người trôi cửa giạt
Bão quất rừng tê, lụt ngâm đất nhọt
Giữa nỗi đau địch hoạ hàng ngày
Đã bồi thêm khủng khiếp một thiên tai.
Giặc thừa thế vung tay càn quét
Cỏ úa, bùn non vùi thêm xác chết
Ôi quê hương lá phổi – buồng tim
Sống sao đây với hơi nghẹt – máu bầm.
Nhưng lòng dân không cạn vơi vì mất mát
Cả sự sống chuyển ngầm trong mạch đất
Mỗi tin yêu nuôi lớn một ước mơ
Mỗi gian lao nhồi chặt một căm thù.
Bỗng vụt dậy công kiên diệt viện
Với thế bật một sức thần bị nén
An Lão ơi – Lũng thấp chuyển non cao
Đêm đông này đã tỏ rạng trời sao.
Mười dặm trống toang ấp rào chiến lược
Bốt cao điểm 193 chống ngược
Từ Hội Long – Vạn Khánh vách đồn bay
Lính mười hai trung đội, súng rời tay.
Đài điện chỉ huy tan thao xác Mỹ
Máy phản lực loạn đội hình bốc cháy
Cả đoàn xe lội nước ngún ra tro
Hàng vạn đồng bào rộng bước tự do.
Nghe hoả tuyến rào rào nhịp bước
Đuốc rực sáng dài trăm bến nước
Thuyền ngược sông bơi cuộn rừng xa
Cồng vượt đèo thúc nhịp ngân nga.
Vây bắt ác ôn tiếng đòi nợ máu
Trên khắp nẻo, lòng căm thù đau đáu
Giấc ngủ nguỵ quân giấc ngủ muỗi mòng
Đêm nằm mơ thấy lửa xung phong.
Chào mảnh đất nắng Iại vàng sáp mới
Tiêu ấm trầu cay, đung đưa bòng bưởi
Thêm đoàn quân Giải phóng chuyển lao đi
Chếch choáng hai nòng 105 ly.
Như đất quê ta sống vì chiến đấu.
Mồ giặc Mỹ cũng là đây – An Lão
Cỏ rực đinh đồi, nước chói mặt sông
An Lão – vang lừng tên một chiến công.

Chiều qua nắng theo cày…
Trên luống cũ hôm nay
Nắng dạt vào ruộng mạ.
Lấn nước chân chiêm, ngã mềm chân hoá,
Người mỗi ngày bỏ nắng lại sau nương.
Đất chạy theo người như ngựa gióng cương,
Từ lúc nông thôn đứng dậy.
Ta đi giữa hội cày hội cấy..
Mẫu đơn hoa nở đỏ lối ra đồng.
Từ tổ đổi công
Tiến sang hợp tác.
Đường ta vươn lên như tre vượt mắt
Xuyên qua từng lóp gai dày;
Mỗi mắt trồi lên ức lại thêm dài.
Chim thấy ngọn cao chim về chim hót.
Nuôi việc ăn làm như nuôi con qua đốt
Đến ngày con lẫy, con chơi;
Đến ngày mười tám đôi mươi,
Đến ngày rộng vai dài vế,
Cái khó đan vào cái dễ
nam mốt, nam hai,
Nuôi việc ăn làm từ hạt muối củ khoai,
Gian khổ, không dừng sức lớn.
Mòn tơi, rách nón,
Chống giặc giữ đồng…
Từ tổ đổi công
Tiến lên hợp tác
Kinh nghiệm người già góp thành bóng mát
Gái trai góp lộc đầu xuân.
Ta dắt ruộng xa về với ruộng gần,
Cống kép ghép đơn, cày sâu bừa lỏng;
Trâu tám ngõ ra, về chung một cổng.
Chẻ tre vặn lạt,
Buộc lòng cho chặt,
Phát lau cào cát
Vỡ lề xưa như vỡ đất hoang.
Nước ta trải bạc – phân ta cầm vàng,
Giống ta như gái bầu đôi má.
Mồ hôi ta thánh thót mưa ngàn,
Chúng ta như chùm quả bồ quân
Khăng khít màu da với đất.
Hỡi em đi chăn, trâu đà buộc chặt.
Hỏi em cắt cỏ đẫy quang,
Khi nghe kẻng gọi ra tràng,
Mau chân về cùng sách vở,
Ngày công các em đã ghi vào sổ
Bên cạnh ngày công bà cụ ủ phân.
Cái yếu được dìu – cái kém được nâng
Khi đã đi vào hợp tác,
Hỏi chị con thơ dừng nôi tiếng hát,
Bộn bề vú sữa nồi cơm,
Bồng con giao tổ trông nom
Nhập đàn làm có.
Hỏi hỏi anh bí thư chân rời trụ sở
Bèo ao đến đáp gót chân,
Răng bừa vẫn sáng ngoài sân,
Khi đã đi vào hợp tác.
Đuổi lụt ra đê, mầu phơi đỏ cát,
Cho ngô lại rắc phấn vàng.
Cho khoai bò dọc bò ngang,
Em bé nướng thom lửa bếp.
Cỏ môi cắn đứt chân gà,
Khôn cắt bàn tay chăm bón.
Nhớ mãi những đêm trăng cài mái xóm,
Ta vào họp tổ sân vôi,
Bóng ta choàng bóng núi đồi,
Bóng núi nằm im – bóng ta day động,
Bóng núi nằm im lụn dần xương sống,
Bóng ta vươn dậy từng giờ,
Từ vũng ao tù,
Ta bắt lấy nguồn cuồn cuộn trào theo con thác,
Bởi ta đã đi vào hợp tác.
Ta đan cái ấm – ta trồng cái no.
Lúa ta đến độ khoả bờ.
Thôn ta sạch rác.
Tre khép chuồng bèo – trâu nhai bóng mát.
Ta đi nhổ cói dệt chiếu ta ngồi.
Rói ấm chè tươi mời đón thêm người,
Ta bàn chuyện đan nia phất quạt.
Ôi nhớ buôỉ đầu góp chung mảnh đất.
Tưởng như xẻ ngực góp da.
Bây giờ chung sức tăng gia.
Công vào một điểm gặt ra đấu đầy.
Ôi nhớ buổi đầu tưởng đứt cánh tay.
Khi đắt con trâu bỏ chung vào tổ.
Hôm nay cả bầy ta cùng là chủ.
Mịn bàn tay ve vuốt từng con.
Đồng ta xây cỗ mâm tròn.
Nghe trong hương lúa
cơm reo bếp lửa
Mẹ căng vú sữa – con ngon giấc nồng.
Từ tổ đổi công
Tiến sang hợp tác
Đồng ta xây cỗ mâm vàng, trăng nghiêng chén ngọc.

Đi trong đoạ đày
Đi trong đói rách
Hàng trăm năm nay
Đi đêm đi ngày
Phá từng bức vách
Chặt từng mắt xích
Máu đổ lòng đau
Chúng ta tìm nhau
Chẳng làm kẻ hành hương tìm về đất thánh
Chân lê nản theo đường dây số mệnh
Chúng ta đi phá bỏ những xiềng gông
Gieo tự do xuống từng mỗi cánh đồng
Ta đi tìm nhau qua cao nguyên tuyết quất
Qua lửa hoả diệm sơn, qua cát nung sa mạc
Qua những bể sâu bão tố thổi bùng
Tìm nhau – tìm nhau
Trời đất chuyển rung
Đế quốc Mỹ cố rải chân bạch tuộc
Buộc cẳng quấn lưng ngăn ta từng bước
Nhưng chúng ta càng vững gót hiên ngang
Theo ánh sao cách mạng chiếu trên đàng
Cuộn chặt căm thù
đi – thành sức mạnh
Chúng ta gieo những đồng gieo nối cánh
Giặc Mỹ còn mong bịt lại những chân trời
Với thi hài từng mảnh đất lẻ loi
Không
Đây Cu-ba, quặng nung thành thép cứng
Cùng châu Mỹ La-tinh trước phong ba giữ vững
Đây An-giê-ri, cát thành khối thuỷ tinh
Cùng Châu Phi, sấm sét chẳng co mình
Đây…
Dù tới tấp dưới trời Đông Nam Á
Rốc-két Mỹ hằng ngày bắn phá
Trên miền Nam của đất nước Việt-Nam
Lê Mỹ cắm vào họng sữa trẻ em
Răng Mỹ nhai giòn mũi tai người sống
Đầu óc Mỹ muốn chiến tranh mở rộng
Phản lực lao ra miền Bắc giữa xây trồng
Nhưng miền Nam đã đắp vững thành đồng
Ấp bắc – Biên Hoà lùa Mỹ vào vực thẳm
Và miền Bắc, loạt súng đầu ngày 5 tháng 8
Vặt cánh quân thù chôn xuống đất đen
Đây, Việt Nam, muôn trượng lửa bùng lên
Cùng Châu Á đốt quân thù thành tro bụi
Và tất cả đang tiến về Hà Nội
Với sức tiềm tàng của Hy-mã-lạp-sơn
Của Xa-ha-ra, của A-ma-dôn
Của đất Lưỡng-hà, của bãi bờ quần đảo
Một sức mạnh vô cùng hùng hậu
Chưa lúc dừng, chỉ biết có xung phong
Không, không, không – Hỡi đế quốc Mỹ!
Không, không
Chúng tao chẳng lẻ loi, chúng tao thành
Mặt trận
Chúng tao đến cùng Việt-Nam chiến thắng

Giường khuya chăn ấm gối êm,
Gà thưa tiếng gáy, bóng đêm còn dày,
Ngư trương ơi, hãy ngủ say,
Chị nuôi đã có sao mai đứng chờ.
Gió lùa vờ vật khói tro,
Tóc mây bới ngược, bếp lò tay nhen.
Ra nhìn nước giếng múc lên,
Nước trong như mắt mẹ hiền chờ con.
Nghe trong tiếng củi nổ dồn,
Sương đêm lách tách, gió cồn vi vu.
Đẫy rồi xôi thúng, nước lu,
Ngước lên trời vẫn chưa mờ sao rua.
Chị nuôi như gió đầu mùa,
Chân đi động sỏi trời chưa tỏ đường.
Bốn bề cỏ ướt những sương,
Ngại chi chợ Tréo gánh trơn lỡ đò.
Đường ra chợ Cửi quanh co,
Cát bay gió cuốn chân dò bước mau.
Chợ Hôm đất mỡ đường dầu,
Không đi thì nhớ hoa màu miền quê.
Xanh xanh lòng nón mớ chè,
Kéo tà áo mỏng mà che rổ cà.
Qua doi nhìn xuống biển xa,
Ra khơi vào lộng thuyền ta vượt rồi,
Thuyền ơi có mệt sóng dồi
Đuổi theo cánh nhạn dò hơi cá bầy,
Chọn luồng, lái trở mũi quay,
Góp từng con cá cho đầy lòng khoang.
Chị nuôi đòn gánh trở ngang
Nghe thuyền chở nặng, dặm đàng bớt xa.
Chiều nay nồm Quảng thổi ra,
Nghe như có tiếng ruột rà nhắn theo.
Thuyền ơi chưa lỏng tay chèo.
Bếp đang bén gió, lửa reo thêm dòn.
Thuyền ra, xôi xới rá tròn,
Thuyền vào, cơm dẻo canh ngon lại chờ.
Thuyền ra cho lưả sáng lò,
Lửa reo cho cá vào no lòng chài.
Cời than thổi bạt khói cay
Nướng xâu xá nhỏ bàn tay thơm lừng.
Nghe sao thơm tỏi, thơm gừng,
Miền quê đến chốn núi rừng cũng thơm.
Thấm hơi cá ngọt mùi cơm,
Công anh bắt cá thì đơm bát đầy,
Chị nuôi – Chị của lưới chài
Nuôi nhau nuôi trọn một ngày gắng công
Sương đêm lành lạnh cửa sông
Tóc đầm lá sả ngồi hong lửa cời.
Chạn trong đũa bát sạch rồi,
Hiên ngoài vại nước bốc hơi dịu dàng,
Cánh sao về đậu ngọn dương,
Xa xôi như mắt người thương ghé tìm.

Biển gọi không ngừng ta đâu thể xa
Sống, ta nghe biển hát quanh nhà
Chết, ta lắng quanh mồ sóng vỗ
Biển ơi biển, ta làm hà thay vỏ
Làm hải âu nương lượn sóng lấy đà
Biển gọi không ngừng. Ta đâu thể xa.
Ta đâu nỡ xa, dù cát nồng, muối xát
Nữa là buổi quê hương có giặc
Ôi quê hương vừa lảnh lót giọng hò khoan
Màng lưới tơ với ánh vẩy cá đàn
Phải căng rộng mắt như lưới rùng, lưới rạng.
Phải khép kín đội, đoàn như lườn thuyền khép ván.
Phải luyện bàn tay vững dường mỏ neo đồng
Mỗi đường gân bền tợ giây song
Ta đem sức khiêng thuyền, kéo giã
Bám lấy biền, giữ từng con cá
Vào cả nơi bom địch vừa rơi
Thả lưới tung chài quanh những thuỷ lôi.
*
Mặc chúng nó tầm xa đại bác
Thùng mắm ván bay, cần câu phao dạt
Buồm chúng ta xé chéo buộc thương
Chèo chúng ta đấu mái che khoang.
Mặc chúng nó kéo còi đổ bộ
Xăng tưới vạn nghề, lửa hun bãi sú
Ta dìm thuyền giấu dưới rong xanh
Chuyển lửa chài lên những trạm canh.
Mặc chúng nó bay là mặt sóng
Thuyền máy, ca-nô đan dày giữa lộng
Ta thuyền nan vượt bể tròng trành
Rẽ mái chèo lẫn theo ánh lân tinh.
*
Nào anh em ơi,
Súng, giáo không rời
Núp gành chận giặc
Chôn thù xuống doi
Ta giấu kho hàng
Ta dời lều lưới
Hầm chông cát dội
Giây mìn cỏ đan
Bồ ta treo rồi
Tàu khơi kéo một
Tàu lộng kéo đôi
Địch mà cập bến
Kẻng nhanh thúc hồi
Ta có những mẹ già gác biển
Mắt chong theo Bắc Đẩu quay vòng
Mái tóc bạc tung dài trên bến
Nâng thêm tầm cao người cửa sông.
Ơi bà mẹ Tam Quan oai dũng
Chân nhẹ nhàng rảo khắp lạch, doi
Lồng ngực lép đương đầu mũi súng
Mõ tre khua tàu giặc phải lùi.
Ta có những bạn chài canh điếm
Đêm mưa lò, ngày cát nắng rang
Báo giặc đến giữ đều hiệu kẻng
Kéo bồ lên thẳng thế hiên ngang.
Ơi người bạn Quy Nhơn oanh liệt
Đỉnh cồn cao tạc mãi bóng hình
Sợi cáp đứt, tay vừa nối kịp
Thoát trăm nhà, riêng mình chịu hy sinh.
*
Này anh em ơi
Tay lái đừng lơi
Mở “đường tiếp máu”
Ta chèo ra khơi
Ta xem màu ráng
Ta đoán tăm triều
Tơi châm, lưới mạng
Bền thừng, chắc neo.
Lượn theo nồm, bấc
Lênh đênh sóng dồi
Khoang ta chở chật
Cái ăn, cái mặc
Hòm đạn, nồi hơi
Cực Nam cản giặc
Bên kia góc trờ
Cực Nam quyết sống
Giữa bao thiếu thốn
Giữa bao tơi bời
Thuyền ta tiếp sức
Ra khơi – Ra khơi…

Tạm biệt – tạm biệt, này đồi hoa đỏ
Này bãi cồn vàng trăng lên lúa trỗ
Này bóng tre xanh che lớp học trưa,
Bãi cõi, nương dâu, mương nước, sá bừa,
Gánh cỏ, cây rơm, cầu ao, bậc giếng,
Trang sổ ghi công, bàn tay đánh kẻng,
Tổ trông em sau vườn bắp lên cờ
Những sắc màu, những âm điệu, tình thơ…
Tạm biệt cánh đồng như con mắt biếc,
Tôi đến tôi yêu – tôi về tôi tiếc,
Nhớ buổi đầu đặt bước đến đây,
“Xắc” cứa vai gầy,
Đường treo dốc ngược;
Tránh né chuồng phân, quanh vòng vũng nước,
Ngẩn ngơ câu hỏi tiếng chào;
Lạc lối khi ra, nhầm ngõ lúc vào,
Đi nhổ mạ cầm liềm, theo hớt bèo vác cuốc,
Ôi buổi ban đầu đến cùng hợp tác,
Như ngày trẻ thơ ra bến tập bơi;
Ngoi ngóp nhìn qua dòng nước cuộn trôi;
Chân chưa đập, tay đã quơ người đón.
Sương gió chưa mòn chóp nón,
Quãng ngày lao động ít oi,
Những bàn tay khi đã thấm mồ hôi,
Cầm thấy nặng từng lưng cơm nắm rạ.
Lạt tôi bó chưa tròn cái mạ
Vực trâu đi còn lỗi đường cày,
Phát cỏ lỡ bờ, tát nước rối dây,
Ôm lượm lúa gié còn vung vãi,
Nhưng quên sao được tấm lưng nhẫn nại,
Đôi vai bền, những nhịp bước dẻo dang;
Dù chỉ làm theo từng động tác bình thường,
Cũng biến sỏi bùn ra khoai, ra lúa,
Quên sao được những chiều đỏ lửa,
Những tấm lưng còng, những khuôn mặt trầm ngâm;
Lúc vào ra dù một tiếng nhủ thầm
Cũng thấy sáng lên những niềm tin tưởng.
Như con trẻ qua bước đầu chập chững,
Càng say mê sau một bước đi.
Tôi đã tìm ra những nét diệu kỳ
Trong tên gọi những gì quen thuộc trước:
Một luống cày sâu – một ngâm mạ tốt.
Một chiếc gàu tát nước mương khơi,
Một gánh phân đang chuyển lên đồi…
Tất cả gợi tên những ngày hoa tháng trái.
Khi góc trời quê tre quần mưa chải,
Khi giữa nắng vàng đậu, lạc lên hoa,
Hay chống bè giang chờ đất phù sa,
Hay vượt đèo dăm… hay băng rào gai nhọn.
Qua mỗi bước nhìn bóng mình mỗi lớn,
Với tay ra thấy tầm cánh tay dài,
Càng nghìn nghe, càng thêm mắt thêm tai.
Này lúc đồng chiêm ruộng vừa no nước,
Sắc mạ xanh êm cánh cò lả lướt,
Những gánh phân mật mỡ nối về;
Từng vốc bùn đắp vững con đê,
Dưới bãi trâu đi, lưỡi cày khấp khởi…
Tạm biệt nhé người đã thêm sức mới,
Đời bừng lên như nắng trên gò.
Vai khoẻ, chân nhanh, tôi từ giã bến đò
Nỗi nhớ mang đi, nỗi mừng để lại:
Bên khóm chuối, thêm hàng cây ăn trái,
Trên mặt ao bèo, thêm bóng cá lên tăm,
Và bên mặt giếng xây, thêm một đoá trăng rằm…
Chào tất cả những tình thần da diết
Điều muốn nói đã nói rồi chưa hết…
Kìa ngọn đèn trong lớp học hôm xưa,
Có phải đang bừng trong những mắt tiễn đưa.
Chào tất cả, trên chuyến tàu Hà Nội.
Chiều nay thêm những mối tơ vương
Dệt một tấm lòng giữa hai quê hương.

Nơi đưa tiễn con em vào đội ngũ
Bóng dài theo non núi trập trùng
Ta cúi xuống cắn ngang gié lúa
Vẫn ngọt ngào giọt sữa đất bom nung
Hạt sây và trái bói
Đồng bãi hẹn mùa vui
Từ những chốn tàn tro còn bốc khói
Sắc non tơ như gợn tới chân trời
Giờ ta xúc, xẻng đầy cát sỏi
hạt mồ hôi trộn thêm dẻo móng ngầm
Ống dẫn khói tạm luồn trong bến bãi
Đắp bệ dày gọi cần, trục vươn lên
Chào tre nữa, vẫn là em đó
Lại đấu vai ghép kín dáo giàn
Lòng thung lũng ầm ầm nhịp búa
Ta tháo dòng cho cơn lũ thép gang
Các anh nữa: gỗ già thớ chắc
Lát hương rừng trong nét chạm hoa văn
Cả than xỉ cũng lọc thành hoá chất
Điểm sắc màu lên vòm cuốn xi măng
Nào ta chở, siết đường ray bật lửa
Rồ ga xăng đảo cả hướng sao đêm
Trên tầng quặng khoang dò đã mở
Luyện đời ta với chất mới hợp kim
Phoi bào cuộn như quầng hoa pháo rối
Lưỡi tay tô láng mặt không gian
Ngả sông nước ửng màu vôi ngói
Mỗi nhà ga, một dấu mốc công trường
Lên khúc mới, suối ơi, hợp xướng
Cho tình – ca – ánh – sáng dạt dào thêm
Hoa sứ dẫn tin xuân vào lũng
Núi đội dòng cao thế đi lên
Nào nổ máy, đốt lò, bấm điện
Với tiếng lao xao liềm hái khắp nương đồng
Ta cất giọng hát lên tiền tuyến
Mùa thi công, mùa rộ chiến công.

Đi qua đường Tân Đệ – Thái Bình,
Cha bẻ cho con cành dương liễu xanh,
Hỡi con gái lớn theo lòng Hà Nội.
Vườn, phố con đi chen đầy cây cối,
Có lạ gì một nhánh liễu rung rinh.
Bẻ cho con một nhành dương biết.
Trên quãng đường xưa, lên bờ tập kết
Cha dẫn con về một lớp học miền Nam.
Tạm ở Thái Bình giữa xóm mái tranh lam.
Con có nhô hôm mình rời thị xã.
Ao mới gây bèo, vườn còn đếm lá;
Phía chân trời thưa thớt một chòm si.
Bóng cha trùm lên bóng nhỏ con đi.
Trong mảnh ruộng con, từng ô sân bé,
Nắm mạ gieo riêng, đường cây xới lẻ;
Những lối con qua cắt nhỏ ruộng đồng,
Cái nắng ban trưa bước mãi không cùng.
Từ ấy đến nay năm mùa cốm mới,
Tay cắp sách qua hàng cay nắng gọi,
Con có nghe trưa Tân Đệ – Thái Bình
Bóng cha hoà trong những bóng cây xanh.
Cha sẽ bẻ cho con cành nay nõn nhất;
Trên lá biếc nhẹ rây qua màu đất
Dãy gò hoang mới vỡ hạt ngô gieo;
Hay bẻ cho con cành ấy rung theo
Những hồi kẻng vang lừng thôn hợp tác;
Cành ấy la đà khung trời bát ngát.
Những mái nhà ngói đỏ cả lùm tre;
Cành ấy uốn mình vờn xuống chân đê.
Bè gỗ, thuyền câu kín giàn mặt nước;
Cành ấy đong đưa theo chiều xe lướt.
Chở nụ cười quê lên giàn dáo công trường.
Hay bẻ cho con một chút nhớ thương
Tiên cành ấy có bàn tay ve vuốt.
Người đồng chí miền Nam trồng cây tưới nước.
Bóng cây thêu đường phố đến đường làng.
Trưa hay chiều, đang nắng hay trăng.
Chân đang bước hay vẫn còn đứng lại ?
Giếng nước, kho lương, mái trường, cổng trại,
Quanh mình cha tiếp nối không thôi…
Chọn cành nào cũng thấy lộn niềm vui
Trong tiếng chim reo gió chiều đến Lộng.
Lá vỗ rì rào nghe dồn nhịp sóng
Trên mái đầu như tiếng nói người thân…
Bẻ liễu quá tầm – cha phải kiễng chân.

Khung cửa nhà ai mở hướng tây.
Đồi xuân nhíu một nét chân mày.
Giữa trưa tỉnh giấc đường công tác.
Mùi Tết lên dần thúng nếp xay.
Xóm nhỏ nhà thưa mấy khóm tre.
Đường cong phưng phức nụ hoa chè.
Cốm rang trong bếp giòn như pháo,
Em đến xua gà, chị chẳng nghe.
Nương trước vườn sau chim đến bói,
nắng nghiêng rò cải lá đang tơ
mẹ ai guồng chỉ dừng tay nối,
Đưa mắt nhìn mây nẻo chiến, khu.
Chậu nước trong ngần bên chõng nhỏ.
Đĩa xôi thơm thiếp gỗ mâm tròn.
Áo nâu cô gái vương đầu ngõ,
Chân khách bâng khuâng xỏ dép mòn.
Quê hương hiện giữa làn hơi nóng.
Khói đạn hôm nào mới bớt cay.
Ghi tên làng xóm cạnh tên người.
Khách ngoảng đầu nheo hướng mặt trời.
Nghe nặng balô, sờ thấy cợm,
Nhìn lui, em bé chẻ môi cười.
Tiếng hát trên đồi ai vẳng xuống,
Quyến chân người cán bộ đường xa.
Chiến khu còn cách nhiều thung lũng.
Đường chiến khu thêm mấy sắc hoa.

Bến My Lăng nằm không, thuyền đợi khách,
Rượu hết rồi, ông lái chẳng buông câu.
Trăng thì đầy rơi vàng trên mặt sách,
Ông lái buồn để gió lén mơn râu.
Ông không muốn run người ra tiếng địch,
Chở mãi hồn lên tắm bến trăng cao.
Vì đìu hiu, đìu hiu, trời tĩnh mịch,
Trời võ vàng, trời thiếu những vì sao.
Trôi quanh thuyền, những lá vàng quá lạnh
Tơ vương trời, nhưng chỉ giải trăng trăng,
Chiều ngui ngút dài trôi về nẻo quạnh,
Để đêm buồn vây phủ bến My Lăng.
Nhưng đêm kia đến một chàng kỵ mã,
Nhúng đầy trăng màu áo ngọc lưu ly.
Chàng gọi đò, gọi đò như hối hả,
Sợ trăng vàng rơi khuất lối chưa đi.
Ông lão vẫn say trăng, đầu gối sách,
Để thuyền hồn bơi khỏi bến My Lăng.
Tiếng gọi đò, gọi đò như oán trách,
Gọi đò thôi run rẩy cả ngành trăng.
Bến My Lăng còn lạnh, bến My Lăng,
Ông lái buồn đợi khách suốt bao trăng…
Bến My Lăng chỉ là tên tưởng tượng, không có thật. Trích lời tâm sự của tác giả: “Những ai đã có một lần đứng đợi một chuyến đò ngang… và nhất là những ai có nỗi hy vọng lớn lao phải chờ đợi… Bến My Lăng ở trong lòng tôi và có thể ở trong lòng bạn.”

Quê ngoại bên kia bãi cát vàng
Mẹ tôi về, lỡ chuyến đò ngang
Cơn đau trỏ dạ, không giường chiếu
Tôi lọt lòng ra giữa bãi trăng.
Vẫn đôi bầu ấy sữa căng đầy
Nuôi lớn hồn nhiên cả một bầy
Sao đến lượt tôi thành trở chứng
Ngọt ngào thoắt đã đổi chua cay.
Võng mẹ ru hời dưới mái hiên
Hương đồng cỏ nội mặc, kề bên
Tôi nằm trong vũng ca dao lạnh
Đón những vầng trăng mẹ vớt lên.
Tôi đã thành người mắc “bệnh trăng”
Chiều mây sớm nắng mỗi bâng khuâng
Chỉ riêng, báo hiệu niềm vui đến
Khi ửng lòng đêm một ngấn hằng
Đừng trách tôi sao cứ hững hờ
Tấm tình dành trọn gửi trăng mơ
Để em ngày tháng quanh thềm, ngõ
Một bóng ưu tư bước thẫn thờ
Bởi điệu tâm hồn, nhịp ái ân
Đêm đêm chờ đến để mong dâng
Tôi yêu trăng quá, mê trăng quá
Như má yêu môi đến đến gần.

Cành xoan đào cha chặt mẹ phơi
Với gốc sắn cuối mùa chị bó
Đêm đưa tiễn cả nhà không ngủ
Dậy cùng nuôi bếp lửa thêm hồng
Lửa chao mình vẩy xuống hướng đông
Hướng đông cũng dậy cùng nhóm lửa
Như hẹn nhau nối quầng tưởng nhớ
Xóm bắc xóm nam lửa cũng lên rồi
Bởi cuộc đời đang độ hai mươi
Mọi bếp lửa cùng bùng theo sức trẻ
Đêm tòng quân chống Mỹ
Tình hậu phương lấn sáng trước ban mai
Bếp lửa nói gì với những chàng trai
Mà vườn tược bãi bờ thảy đều rạo rực ?
Vẫn tiếng mương phai cần cù dân nước
Nhuộm phù sa như áo mẹ nhuộm nâu
Tiếng quanh đồng tre trúc lao xao
Nhịp đòn gánh trên vai em bền bỉ
Rúc rích ai cười trong đêm bình nghị
Bánh xe băng qua dốc quãng đê bồi
Cái dìu chao, sáo rói xuống lưng đồi
Tia nắng rung rinh vườn cây thí nghiệm
Mùa lũ lội mõ canh bên điếm
Đêm chiếu phim máy nổ sân kho
Ôi, tiếng đã xa chừng của lớp học tuổi thơ
Và rõ quá, tiếng em từng mơ ước.
Vẫn những tiếng đơn sơ quen thuộc
Mà thiết tha, mà Lắng đọng, bộn bề
Như đã từng nghe, như vốn chưa nghe
Trong bận rộn giữa lòng người ở lại
Rồi bếp lửa hoá trăm tay cùng vẫy
Về phía đang nghi ngút đạn bom thù
Ngày mai, ngày kia, dưới lần bạt ba lô
Sâu nặng nhất vẫn những điều gửi gắm.
Giờ người đi bắt đầu nín lặng
Chừng cũng nói gì với bếp lửa trang nghiêm
Những lời này, như mũi chỉ đường kim
Anh sẽ đột lên con đường phía trước
Nơi công sự đào xuyên lòng đất
Nơi sườn non khẩu pháo đến kê nòng
Nơi hộp mìn nổ dậy tiếng xung phong
Gót đạp đầu thù, gông xiềng thác mở
Cái quầng sáng lòng hậu phương không ngủ
Cành hoa hiên trên ngực đất anh hùng
Anh soi vào thấy sắc mặt cha ông
Hai mươi tuổi, bốn mùa nhen sáng mãi
Cái bếp lửa mang cả hồn thời đại
Lại do tay dậy sớm mẹ nhen bừng.

Đây là chốn nương mây và cậy nguyệt.
Đàng chờ xe, sông nước ước mong thuyền.
Tịch-dương-liễu không biết mình đang biếc,
Tương tư trời tương tư, nhạc triền miên.
Mây nổi đó những hồn chừng xa xứ.
Trăng cô liêu trắng mộng hồ xa nao ?
Xe lỗi hẹn với người trong lữ thứ,
Những cánh thuyền muôn dặm cũng hư hao.
Ôi Bình Định, mây chia trời cách biệt.
Những bâng khuâng trong giá lạnh sương hoa.
Nhà ngơ ngẩn, nhũng tường vôi keo kiết.
Nam-quách sầu, Đông-phố quạnh, Tây-môn xa.
Cây lặng lẽ gượng làm bầy hài đảo
Thuyền bồ câu nghiêng buồm trắng trôi ven.
Tăm chiêu mộ nổi trên dòng nước Đạo.
Rượu ân tình – Bình Định – xứ lên men.
Đường lăng lắc chảy trong quầng nắng nhạt,
Nhớ thương từ vườn chuối nuối vương
Dưa.
Giấc Trang-tử đêm vầy theo hội hát
Cuối đôi làng xam xám dệt tơ mưa.
Ôi Bình Định tự thanh cao trao gửi
Buồn xế tà qua mấy cửa rêu xanh.
Nơi đến đọng những vũng chiều lạnh đợi
Buổi trăng gầy, gió luỵ xuống mong manh.
Đây tôi sống trong thanh nghiêm thánh thất:
Đèn lưu ly hao sáng mộng tràn đầy
Lan can đó xuống dần từng bậc bậc,
Hồn cuộn dần bậc bậc khói hương xây.
Hồn tôi loảng trên bệ vàng thếp chảy,
Cùng hồn trưa quấn quít lấy giao lân.
Tám phương bạn – chợp hàng mi – mộng thấy
Xứ tâm tình, vàng rộn lá thu phân.
Nhánh tòng, bá có đau vì xứ sở,
Chớ quặn mình thêm nức nở hồn tôi,
Không được sống, xin cho cùng được thở,
Vạn-lý-tình trong gió ngọt xa xôi.
Trời Bình Định có thương Em lẻ chiếc,
Em nằm thương xanh biếc của trời buồn.
Trên đài trán thơ hằng lên vọng nguyệt,
Trăng còn nương thuyền nhạc khuất trong sương.
Hoa tư tưởng phân thân chìu gió trải,
Trời hoa tiên, hồ hải nói lrong tâm.
Ôi Bình Định, sao nằm trong mãi mãi
Đĩa dầu vơi, tim cháy ngọn âm âm… ?

Không, Bình Định đã qua cơn sốt rét.
Nước da vàng lột theo vỏ cây khô.
Dấu xe ngựa đã niêm đầy ngõ kiệt.
Trăng lạc loài gặp lại giữa đêm thu.
Bùn rắn lại trên bàn tay cày cuốc.
Trán công nhân rực thét lửa chân đe
Nét khẩu hiệu, tay huơ bừng ngọn đuốc,
Tay vót căm thù bén những thanh tre.
Con đường đỏ duỗi ngay dòng ảo não.
Phổ kiểng lên như chờ lệnh song hành.
Tờ lịch, chị hôm qua sầu chửa ráo.
Mà em nay, đã dựng nét mày xanh.
Gò cửa bấc sỏi đồ bia liệt sĩ.
Hịch Văn thân chống thuế gió rền vang.
Doàn áo vải dẫn đầu hàng tự vệ.
Nắng rung trên những mái rạ vá quàng.
Ôi Bình Định buổi đèn mờ, nước lã.
Bóng nha môn nằm chặn lối ân tình,
Đêm bỗng dậy những ánh vàng xa lạ.
Sao mọc rồi, sông núi bớt lung linh.
Hồi mõ ngục hết xao trăng tình lự.
Chim ria lông cười ngai bệ hành cung
Hồ trụ biểu thụt vào nanh vuốt dữ.
Trống lầu tây đã đổi nhịp thu không.
Chim bồ câu hay đoàn xe sứ giả
Tung năng đào trong cánh trắng giao duyên.
Chim tu viện lên lầu hôn thánh giá.
Đầm sen đêm thao thức lá gieo tiền.
Tin xa lạ những Ba Tơ. Việt Bắc.
Người kề nhau như kể chuyện truyền kỳ.
Đất ê ẩm dưới đinh, giầy Pháp Nhật.
Vội trở mình ôm chặt gót thu đi.
Mỗi ký ước Kon-tum, Ban-mê-thuột.
Một mũi gai trong dĩ vãng tù đày.
Người cán bộ ngùi quên châm điếu thuốc.
Nhìn cột cờ phấp phới ánh sao bay
Ôi Bình Định, đau thương gài trước ngõ.
Mẹ ru con trong bóng tối phật phồng.
Trong tay áo còn nghe dài tiếng thở.
Bỗng thấy quanh thềm hát núi, ca sông.
Những thổ sơn vút cao đài vọng hải
Người chưa lên mà lòng bướm ra ràng.
Nhìn nở khắp trên ruộng, đồng, lạch, bãi.
Hoa: đoàn tàu – Hoa: những chuyến đò ngang.
Sông Côn chảy qua bảy tầng thác đập.
Tình Trung châu: hương mật nặng khoang thuyền.
Duyên cá nục, măng le về hội họp.
Phiên chợ Thành vụt tỉnh giấc cô miên.
Tôi đi giữa những vườn gòn thẳng tắp,
Ôm trong lòng biển lớn vỗ non cao
Bông rụng xuống mái đầu nghe ấm áp.
Như mái đầu lót tổ đón chim sao.
Qua trường cũ thấy rạc rào sóng ngói.
Lòng bỗng dưng thơm mùi giấy học sinh.
Trên trang sách của cuộc đời đổi mới.
Nghe thơ về bay vút cả trời xanh.
Tim còn rộn khúc “hành vân”, “lưu thuỷ”.
Đầu sôi lên điệu mới “Tiến quân ca”.
Nét mực đỏ gạch dưới hàng nhật ký:
“Đây mùa thơ của dân chủ cộng hoà”.
Phấp phới lá lay. ngõ chào cổng đón.
Có cuộc đi về, không cảnh tiễn đưa.
Vệt môi đỏ đã biết cười dưới nón.
Đàn bướm vàng lạc đến mộng ban trưa.
Cuộn liên lạc khi lững lò mây tháo:
Ai nhắn vè từ Phú Quốc–Nam Quan ?
Hỡi sứ mây, chờ tôi đề lên áo
Lời hẹn ngày gặp gỡ giữa Đồ Bàn.
Lầu Cửa Đông có nghe Em tâm sự
Em đi trong tình sử của lầu thơ.
Hai chúng ta bước qua đêm quá khứ
Ngoảnh đôi đầu không còn thấy bơ vơ.
Có ai dạo sênh tiền trong chạng vạng.
Nhạc cong theo xóm lao động Lò-rèn
Ôi Bình Định, hôm nay chào Cách mạng.
Đón bình minh trong nhà nhỏ không đèn.

Trên đây chúng tôi đã chia sẻ đến quý độc giả những trang thơ vô cùng ấn tượng vang danh của nhà thơ Yến Lan. Với ngòi bút tài hoa mà những bài thơ của ông đến gần hơn với bạn đọc và được yêu thích mạnh mẽ. Hãy cùng chúng tôi đón xem phần 2 vào một ngày không xa nhé! Thân Ái!

Related posts

BST Kho Tàng Thơ Đặc Sắc Của Cao Bá Quát Phần 9

admin

“Điêu Tàn”: Nỗi Hoài Vãn Khôn Nguôi Của Chế Lan Viên (P1)

admin

Nguyễn Khoa Điềm với tập thơ Đất và khát vọng Phần 2

admin

Leave a Comment