Thơ Hay

Truyên thơ Lục Vân Tiên (Nguyễn Đình Chiểu) hay đặc sắc phần 2

Tập truyện thơ Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu được sáng tác và in nhiều lần. Chính vì vậy có nhiều văn bản khác nhau và được thêm bớt cả trăm câu thơ. Nếu văn bản thông thường thì tập tuyện thơ này có 2082 câu lục bát với nhiều chương hồi. Tiếp theo các chương đầu tiên của tập truyện thơ chúng tôi sẽ giới thiệu với bạn các hồi tiếp theo để bạn tham khảo.

Xa xa vừa mấy dặm đường,
Gặp Vương Tử Trực vầy đoàn đều đi.

421. Trải qua thuỷ tú, sơn kỳ,
Phỉ lòng cá nhảy, gặp thì rồng bay.
Người hay lại gặp cảnh hay,
Khác nào tiên tử chơi rày Bồng Lai.
Cùng nhau tả chút tình hoài,
Năm ba chén rượu, một vài câu thơ.
Công danh ai chẳng ước mơ,
Ba tầng cửa võ một giờ nhảy qua.
Cùng nhau bàn bạc gần xa,
Chữ tài chữ mệnh xưa hoà ghét nhau.

431. Trực rằng: “Rồng xuống vực xâu,
“Mặc dầu dỡn sóng mặc dầu chơi mây.”
Tiên rằng: “Hồng Hộc đều bay,
“E khi mỏi cánh lạc bầy về sau.”
Mảng còn trò chuyện với nhau,
Trông chừng kinh địa đã hầu tới nơi.
Chênh chênh vừa xế mặt trời,
Hai người tìm quán nghỉ ngơi đợi kỳ.
Phút đâu gặp bạn đi thi,
Đều bày tên họ môt khi mới tường.

441. Một người ở quận Phan Dương,
Tên Hâm, họ Trịnh tầm thường nghề văn.
Một người ở quận Dương xuân,
Họ Bùi, tên Kiệm tác chừng đôi mươi.
Hai người lại gặp hai người,
Đều vào một quán vui cười ngả nghiêng.
Kiệm rằng: “Nghe tiếng anh Tiên,
“Nay đà thấy mặt phỉ nguyền ước ao.”
Hâm rằng: “Chưa biết thấp cao,
“Làm thơ mới biết bậc nào tài năng.”

451. Bèn kêu ông quán nói rằng:
“Khá toan sắm sửa đồ ăn cho bề.
Quán rằng: “Thịt cá ê hề,
“Khô lân chả phụng bộn bề thiếu đâu.
“Kìa là thuốc lá ướp ngâu,
“Trà ve tuyết điểm, rượu bầu cúc hương.
“Để khi đãi khách giầu sang,
“Đãi người văn vật, đãi trang anh hùng.”
Bĩ bàng trà rượu đã xong,
Bốn người ngồi lại một vòng làm thơ,

461. Kiệm, Hâm còn hãy ngẩn ngơ,
Phút thơ Tiên, Trực, một giờ vừa xong.
Kiệm, Hâm xem thấy lạ lùng,
Gẫm nghi Tiên, Trực viết tùng cổ thi.
Chẳng hay ông quán cười chi,
Vỗ tay xuống chiếu một khi cười dài.
Tiên rằng: “Ông quán cười ai?”
Quán rằng: “Cười kẻ bất tài đồ thơ.
“Cười người Tôn Tẫn không lừa,
“Trước đà thấy mấy chẳng ngừa Bàng Quyên.

471. Trực rằng: “Lời nói hữu duyên,
“Thế trong kinh sử có tuyền cùng chăng?”
Quán rằng: “Kinh sử đã từng,
“Coi rồi lại khiến lòng hằng xót xa.
“Hỏi thời ta phải nói ra,
“Vì chưng hay ghét cũng là hay thương.”
Tiên rằng: “Trong đục chưa tường,
“Chẳng hay thương ghét, ghét thương lẽ nào?”
Quán rằng: “Ghét việc tầm phào,
“Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tới tâm.

481. “Ghét đời Kiệt, Trụ mê dâm,
“Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hang.
“Ghét đời U, Lệ đa đoan,
“Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần.
“Ghét đời Ngũ bá phân vân,
“Chuộng bề dối trá, làm dân nhọc nhằn.
“Ghét đời Thúc quí phân băng,
“Sớm đầu tối đánh, lằng nhằng rối dân.
“Thương là thương đức thánh nhân,
“Khi nơi Tống, Vệ, lúc Trần, lúc Khuôn.

491. “Thương thầy Nhan-tử dở dang,
“Ba mươi mốt tuổi, tách đàng công danh.
“Thương ông Gia Cát tài lành,
Gặp cơn Hán mạt, đã đành phôi pha.
“Thương thầy Đồng tử cao xa,
“Chí thời có chí, ngôi mà không ngôi.
“Thương người Nguyên Lượng bùi ngùi,
“Lỡ bề giúp nước lại lui về cày.
“Thương ông Hàn Dũ chẳng may,
“Sớm dâng lời biểu tối đày đi xa.

501. “Thương thầy Liêm Lạc đã ra,
“Bị lời xua đuổi về nhà giáo dân.
“Xem qua kinh sử mấy lần,
“Nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương.”
Trực rằng: “Chùa rách phật vàng,
“Ai hay trong quán ẩn tàng kinh luân.
“Thương dân sao chẳng lập thân,
“Để khi nắng hạ toan phần làm mưa?”
Quán rằng: “Nghiêu, Thuấn thuở xưa,
“Khó ngăn Sào Phủ, khôn ngừa Hứa Do.

511. “Di, Tề chẳng khứng giúp Châu,
“Môt mình một núi, ai hầu chi ai.
“Ông Y, ông Phó ôm tài,
“Kẻ cày, người cuốc đoái hoài chi đâu?
“Thái công xưa một cần câu,
“Sớm mai sông Vị, mặc dầu vui chơi.
“Nghiêm Lăng đã mấy đua bơi,
“Cày mây, cần nguyệt tả tơi áo cầu.
Trần Đoàn chẳng chút lo âu,
“Gió trăng môt túi công hầu chiêm bao.

521. “Người nay có khác xưa nào?
“Muốn ra ai cấm, muốn vào ai ngăn.”
Kiệm rằng: “Lão quán nói nhăng,
“Dầu cho trải việc cũng thằng bán cơm.
“Gối rơm theo phận gối rơm,
“Có đâu ở thấp mà chồm lên cao.”
Quán rằng: “Sấm chớp mưa rào,
“Ếch nằm đáy giếng thấy bao nhiêu trời.
“Sông trong cá lội thảnh thơi,
“Xem hai con mắt sáng ngời như châu.

531. “Uổng thay đàn gảy tai trâu,
“Nước xao đầu vịt, nghĩ lâu nực cưòi.”
Tiên rằng: “Ông quán chớ cười,
“Đây đà nhớ đặng bảy người Trước Lâm.
“Cùng nhau kết bạn đồng tâm,
“Khi cờ, khi rượu, khi cầm, khi thi.
“Công danh phú quí màng chi,
“Cho bằng thong thả mặc khi vui lòng.
“Rừng nho biển thánh mênh mông,
“Dễ ai lặn lội cho cùng vậy vay.”

541. Quán rằng: “Đó biết lòng đây,
“Lời kia đã cạn, rượu nầy thưởng cho.”
Kiệm, Hâm, là đứa so đo,
Thấy Tiên dường ấy âu lo trong lòng.
Khoa nầy Tiên ắt đầu công,
Hâm dầu có đậu cũng không xong rồi.
Mảng còn nghĩ việc tới lui,
Xảy nghe trống đã giục thôi vào trường.
Kẻ thùng, người thấp đầy đường,
Lao xao đoàn bảy, chàng ràng lũ ba.

551. Vân Tiên vừa bưóc chân ra,
Bỗng đâu xảy gặp tin nhà đưa thư.

Khai phong mới tỏ sự cơ,
Mình gieo xuống đất dật dờ hồn hoa.
Hai hàng luỵ ngọc nhỏ sa,
Trời Nam, đất Bắc xót xa đoạn trường.
Anh em ai nấy đều thương,
Trời ơi! Há nỡ lấp đường công danh.
Những năm công toại danh thành,
Nào hay từ mẫu u minh sớm dời.

561. Gắng vào trong quán an nơi,
Tớ thầy than thở, liệu thời qui lai.
Tiểu đồng thở vắn than dài.
“Trời ơi! trời nỡ phụ tài người ngay.”
Trực rằng: “Đã đến nỗi nầy,
“Tiểu đồng, bậu hăy làm khuây giải phiền.
“Sớm mai thang thuốc giữ gìn,
“Chờ ta vài bữa ra trường sẽ hay.
“Bây giờ kíp rước thợ may,
“Sắm đồ tang phục, nội ngày cho xong.

571. “Dây rơm, mũ bạc, áo thùng,
“Cứ theo trong sách Văn công mà làm.”
Tiên rằng: “Mẹ Bắc con Nam,
“Nước non vòi vọi đã cam lỗi nghì.
“Trong mình không cánh không vi,
“Lấy chi bớt dặm, lấy chi bớt đàng.”
Vào tràng phút lại gặp tang,
Ngẩn ngơ người ở, ngỡ ngàng kẻ đi.
Việc trong trời đất biết chi,
Sao dời vật đổi cňn gì mà trông.

581. Hai hàng luỵ ngọc ròng ròng,
Tưởng bao nhiêu lại đau lòng bấy nhiêu.
Cánh buồm bao quản gió xiêu,
Ngàn trùng biển rộng, chín chìu ruột đau.
Thương thay chín chữ cù lao,
Ba năm nhũ bộ biết bao nhiêu tình.
Quán rằng: “Trời đất thình lình,
“Gió mưa đâu phút gãy cành thiên hương.”
Ai ai trông thấy cũng thương,
Lỡ bề báo hiếu, lỡ đường lập thân.

591. Dầu cho chước quỷ mưu thần,
Phong trần ai cũng phong trần như ai.
Éo le ai khéo đặt bày,
Chữ tài liền với chữ tai một vần.
Đường đi hơn tháng chẳng gần,
Khi qua khi lại, mấy lần xông pha.
Xảy đâu bạc tác vừa ra,
Trực cùng Hâm, Kiệm xúm mà đưa Tiên.
Hâm rằng: “Anh chớ ưu phiền,
“Khoa này chẳng gặp ta nguyền khoa sau.”

601. Thấy nhau khó nỗi giúp nhau,
Một vừng mây bạc dàu dàu khá thương.
Vân Tiên cất gánh lên đường,
Trịnh Hâm ngó lại đôi hàng nhỏ sa.
Đi vừa một dặm xa xa,
Phút nghe ông quán bôn ba theo cùng.
Quán rằng: “Thương đấng anh hùng,
“Đưa ba huờn thuốc để phòng hộ thân.
“Chẳng may gặp lúc gian truân,
“Đương khi quá đói, thuốc thần cũng no.”

611. Tiên rằng: “Cúi đội ơn cho,
Tấm lòng ngài ngại hãy lo xa gần.”
Quán rằng: “Ta cũng bâng khuâng,
“Thấy vầy nên mới tị trần đến đây.
“Non xanh nước biếc vui vầy,
“Khi đęm rượu cúc, khi ngày trà lan.
“Dấn thân vào chốn an nhàn,
“Thoát vòng danh lợi, lánh đàng thị phi.”
Nói rồi quày quả ra đi,
Vân Tiên xem thấy càng nghi trong lòng.

621. Trông chừng dặm cũ thẳng xông,
Nghĩ đòi cơn lại não nồng đòi cơn.
Nên hư chút phận chi sờn,
Nhớ câu dưỡng dục, lo ơn sinh thành.
Mang câu bất hiếu đã đành,
Nghĩ mình mà thẹn cho mình làm con.
Trọn đời một tấm lòng son,
Chí lăm trả nợ nước non cho rồi.
Nào hay nước chảy hoa trôi,
Nào hay phận bạc như vôi thế này.

631. Một mình ngơ ngẩn đường mây,
Khác nào chiếc nhạn lạc bầy kêu sương.
Đến nay lâm việc mới tường,
Hèn chi thầy dậy khoa trường còn xa.
Tiểu đông thấy vậy thưa qua:
“Gẫm đây cho đến quę nhà còn lâu.
“Thế sao chẳng bớt cơn sầu,
“Mình đi đă mỏi, giòng châu thêm nhuần.
“E khi mang bệnh nửa chừng.
“Trông nom khó liệu, giũa rừng khôn toan.”

641. Tiên rằng: “Khô héo lá gan!”
Ôi thôi! con mắt đã mang lấy sầu.
Mịt mù nào thấy chi đâu,
Chân đi đă mỏi, mình đau như dần.
Có thân phải khổ vì thân,
Thân ôi! thân biết mấy lần chẳng may!
Đồng rằng: “Trời đất có hay,
“Ra đi vừa đặng mười ngày lại đau.
“Một měnh nhắm trước xem sau,
“Xanh xanh bờ cõi, dàu dàu cỏ cây.

651. “Vốn không làng xóm chi đây,
“Xin lần tới đó těm thầy thuốc thang.”
Vừa may gặp khách qua đàng,
Người người đều chỉ vào làng Đồng Văn.
Dắt nhau khi ấy hỏi phăng,
Gặp thầy làm thuốc, hiệu là Triệu Ngang.
Ngang rằng: “Khá tạm nghỉ an,
“Rạng ngày coi mạch đầu thang mới đành.
“Gặp ta bệnh ấy ắt lành,
“Bạc tiền trong gói sẵn dành bao nhiêu?”

661. Đồng rằng: “Tiền bạc chẳng nhiều,
“Xin thầy nghĩ lượng được điều thuốc thang.
“May mà bệnh ấy đặng an,
“Bạc còn hai lượng trao sang cho thầy.”
Ngang rằng: “Ta ở chốn nầy,
“Ba đời nối nghiệp làm thầy vừa ba.
“Sách chi cũng đủ trong nhà,
“Nội kinh đă sẵn, ngoại khoa thêm mầu.
“Trước xem y học làm đầu,
“Sau coi Thọ Thế, thứ cầu Đông Y.

671. “Gẫm trong Ngân Hải, Tinh vi,
“Cùng là Cang mục thua gì Thanh nang.
“Gẫm trong Tập nghiêm lương phang,
“Cùng là Ngự toản trải đàng Hồi xuân.
“Vị chi sẵn đặt quân thần,
“Thuốc thời bào chế mười phần nở nang.
“Mạch thời đọc mạch Lư san,
“Đặt vào tay bệnh biết đàng tử sinh.
“Lục quân. Tứ vật thang danh,
“Thập toàn, Bát vị, sẵn dành nội thương.

681. “Lại thông bát trận tân phương,
“Lâm nhằm ngoại cảm đầu thang Ngũ sài.”
Đồng rằng: “Thầy thiệt có tài,
“Xin vào coi mạch luận bài thuốc chi.”
Ngang rằng: “Lục bộ đều suy,
“Bộ quan bên tả, mạch đi phů hồng.
“Cứ trong kinh lạc mà thông,
“Mạng môn tước quả đã xông lên đầu.
“Tam tiêu tích nhiệt đã lâu,
“Muốn cho giáng hoả, phải đầu Tư âm.

691. “Huỳnh liên, huỳnh bá, huỳnh cầm,
“Gia vào cho bội nhiệt tâm mới bình.
“Ngoài thời cho điểm vạn linh,
“Trong thời cho uống hoàn tình mới xong.
“Khá trao hai lượng bạc ròng,
“Bổ thêm vị thuốc để phòng đầu thang.
“Chảng qua làm phúc cho chàng,
“Nào ai đòi chuộc đòi đàn chi ai.”
Tiểu đồng những ngỡ thiệt trò,
Vội vàng mở gói chẳng nài liền trao.

701. Mười ngày chẳng bớt chút nào,
Thêm đau trong dạ, như bào như xoi.
Đồng rằng: “Vào đó thầy coi,
“Bệnh thời không giảm, thầy đòi tiền thêm.”
Ngang rằng: “Nằm thấy khi đêm,
“Tiên sư mách bảo một điềm chiêm bao.
“Quỉ thần người ở trên cao,
“E khi đường sá lẽ nào biết đâu?
“Tiểu đồng ngươi khá qua cầu,
“Cůng ông thầy bói ở đầu Tây viên.”

711. Tiểu đồng nghe nói đi liền,
Gặp ông thầy bói đặt tiền mà coi.
Bói rằng: “Ta bói hẳn hoi,
“Bói hay đă dậy, người coi đă đầy.
“Ta đây nào phải các thầy,
“Bá vơ, bá vất, nói nhây không nhằm.
“Ôn nhuần, Châu diệc mấy năm,
“Sáu mươi bốn quẻ, ba trăm dư hào.
“Huỳnh kim, Dã hạc sách cao,
“Lục nhâm, Lục giáp chỗ nào chẳng hay.”

721. “Can, chi đều ở trong tay,
“Đă thông trời đất, lại hay việc người.
“Đặt tiền quan mốt bốn mươi,
“Khay trầu, chén rượu cho tươi mới thành.
“Thầy bèn gieo đặng quẻ lành,
“Chiếm tên tuổi ấy lộ trình mắc chi?
“Ứng vào rùa với cỏ thi,
“Rồi thầy coi quẻ, một khi mới tường.”
Đồng rằng: “Người ở Đôngphương,
“Nhân đi buôn bán giữa đường chẳng an.

731. “Con nhà họ Lục là chàng,
“Tuổi vừa hai tám, còn đàng thơ ngây.”
Bói rằng: “Đinh mão năm nay,
“Hèn chi giáp tí ngày rày chẳng an.
“Mạng kim lại ở cung càn,
“Tuổi này là tuổi giầu sang trong đời.
“Cầu tài quẻ ấy xa vời,
“Khen ngươi khéo nói những lời trêu ta.”
Cầm tiền gieo xuống xem qua,
Một Giao, hai Sách, lại ba hào trùng.

741. Trang thành là quẻ lục xung,
Thấy hào phụ mẫu khắc cùng tử tôn.
Hoá ra làm quẻ du hồn,
Lại thêm thế động khắc dồn hào quang.
Cứ trong quẻ ấy mà bàn:
“Tuổi nầy mới chịu mẫu tang trong mình.
“Xui nên phát bệnh thình lình,
“Vì chưng ma quỉ lộ trình rất thiêng.
“Muốn cho bệnh ấy đặng yên,
“Phải tìm thầy pháp chữa chuyên ít ngày.”

751. Đồng rằng: “Thầy pháp đâu đây.”
Bói rằng: “Cũng ở chốn nầy bước ra.
“Pháp hay tiếng dậy dồn xa,
“Tên là Đạo sĩ, ở Trà hương thôn.”
Tiểu đồng mới chạy bôn bôn,
Hỏi thăm đạo sĩ hương thôn chốn nào?
Chợ đông buôn bán lao xao,
Người ta liền chỉ nơi nào chẳng xa.
Đồng đi một buổi tới nhà,
Đạo sĩ xem thấy lòng mà mừng thay!

761. Đồng rằng: “Nghe tiếng thầy đây,
“Trừ ma ếm quỉ, phép thầy rất hay.”
Pháp rằng: “ấn đă cao tay,
“Lại thêm phù, chú xưa nay ai bì.
“Qua sông cá thấy xếp vi,
“Vào rừng cọp thấy phải quỳ lạy đưa.
“Pháp hay hú gió kêu mưa,
“Sai chim, khiến vượn, đuổi lừa, vật trâu.
“Pháp hay miệng niệm một câu,
“Tóm thâu muôn vật vào bầu hồ linh.

771. “Phép hay sái đậu thành binh,
“Bện hình làm tướng phá thành Diêm vuơng.
“Phép hay dạo hoả phó thang,
“Ngồi gươm đứng giáo mở đàng thiên hoang.
“Có ba lượng bạc trao sang,
“Đặng thầy sắm sủa lập đàn chữa cho,”
Đồng rằng: “Tôi chẳng so đo,
“Khuyên thầy gắng sức chớ lo khó giàu.
“Bấy lâu thầy tớ theo nhau,
“Bạc dành hai lượng phòng sau đi đàng.

781. “Chữa chuyên bệnh ấy đặng an,
“Rồi tôi sẽ lấy đem sang cho thầy. “
Pháp rằng: “Về lấy sang đây,
“Cho thầy toan liệu lập rày đón ra.”
Đồng rằng: “Tôi đã lo xa,
“Cực vì nguời bệnh ở nhà chẳng yên.
“Xin thầy gắng sức chịu phiền,
“Ra công bùa chú chữa chuyên dường nào.”
Pháp rằng: “Có khó chi sao,
“Người nằm ta chữa rối trao phù về.”

791. Đồng rằng: “Tôi vốn thằng hề,
“Bệnh chi mà khiến chịu bề chữa chuyên? “
Pháp rằng: “Ta biết kinh quyền,
“Đau nam chữa bắc mà thuyên mới tài. “
Tiểu đồng nghe lọt vào tai,
Lòng mừng vội vã nằm dài chữa chuyên.
Pháp bèn cất tiếng hét lên:
“Mời ông Bàn cổ toạ tiền chứng miêng.
“Thỉnh ông Đại thánh Tề thiên,
“Thỉnh bà Võ hậu đều liền đến đây.

801. “Thỉnh ông Nguyên soáì chinh Tây,
“Cùng bà Vương mẫu sum vầy một khi.
“Thỉnh ông Phật tổ A di,
“Thập phương chư Phật phù trì giúp công.
“Lại mời công chúa Ngũ long,
“Bình Nam ngũ hổ hội đồng an dinh.
“Thỉnh trong thięn tướng, thiên binh,
“Cùng là tam phủ Động đình Xích lân.
“Thỉnh trong khắp hết quỉ thần,
“Cùng đều xuống chốn dương trần vui chơi.”

811. Cho ngươi ba đạo phů trời,
Uống vào khoẻ mạnh như lời chẳng sai.
Tiểu đồng vâng lĩnh theo lời,
Lấy phů trở lại toan bài thuốc thang.
Vào nhà thưa với thầy Ngang.
“Pháp phù đã đủ thầy toan phương nào?”
Ngang rằng: “Còn bạc trong bao,
“Thời ngươi khá lấy mà trao cho thầy “
Đồng rằng: “Tôi hãy ở đây,
“Bệnh kia dầu khá mình nầy bán đi.”

821. Triệu Ngang biết chẳng còn chi,
Kiếm đường tráo chác đuổi đi khỏi vňng:
“Ở đây làng xóm khó lòng,
“E khi mưa nắng ai cùng đỡ che.”
Đồng rằng: “Trong gói vắng hoe,
“Bởi tin nên mắc, bởi nghe nên lầm.
“Mới lo chạy hết một trăm,
“Mình ve khô xép ruột tằm héo don.
“Thương thay tiền mất tật còn,
“Bơ vơ đất khách thon von thế này.

831. “Thôi thôi gắng gượng khỏi đây,
“Tôi đi khuyęn giáo đỡ ngày gạo rau.”
Vân Tiên chi xiết nỗi sầu,
Tiểu đồng dầu dắt gần cầu Lá buôn.
Đương khi mưa gió luông tuồng,
Nguời buồn lại gặp kiểng buồn khá thương.
Xiết bao ăn tuyết nằm sương,
Màn trời chiếu đất dặm trường lao đao,
Dầu cho trái trí bực nào,
Gặp cơn nguy hiểm biết sao mà nhờ.

841. Tiên rằng: “Đi đă ngất ngơ,
“Tìm nơi cây cối bụi bờ nghỉ chưn.”
Đồng rằng: “Chốc nữa khỏi rừng,
“Tìm nơi quán xá sẽ dừng nghỉ ngơi.”
Non tây vừa khuất mặt trời,
Tớ thầy dìu dắt tới nơi Đại đề.

Trên đây là các hồi tiếp theo trong truyện thơ Lục Vân Tiên mà chúng tôi muốn chia sẻ với bạn. Thông qua bài viết này bạn sẽ hiểu thêm về phong cách sáng tác của nhà thơ. Với chất thơ giản dị các bài thơ này đã thực sự chạm tới trái tim của người đọc. Và tập thơ Nôm này đã nhận được rất nhiều đánh giá tích cực từ những người yêu thơ. Đừng quên đón đọc các bài viết tiếp theo của chúng tôi để cùng cập nhật các hồi của tập thơ này bạn nhé!

Xem thêm: Truyên thơ Lục Vân Tiên (Nguyễn Đình Chiểu) hay đặc sắc phần 3

Related posts

Bài thơ Bình Định Yêu Thương – Nhà thơ Phú Sĩ

admin

Bài thơ Có yêu không – Nhà thơ Nguyễn Đình Huân

admin

Bài Thơ Khúc Thụy Du – Quằn Quại Nỗi Đau Chiến Tranh Khôn Nguôi

admin

Leave a Comment