Thơ Hay

Truyên thơ Lục Vân Tiên (Nguyễn Đình Chiểu) hay đặc sắc phần cuối

Lục Vân Tiên là một truyện thơ dài và được chia làm nhiều hồi. Ở những bài viết trước chúng tôi đã giới thiệu với bạn các hồi đầu của tập thơ này. Qua đó bạn có thể hiểu được câu chuyện về Lục Vân Tiên. Đó là sự coi trọng tình nghĩa mẹ cha, vợ chồng, bạn bè.. và cũng đề cao tinh thần sẵn sàng cứu nguy khốn. Hãy cùng đọc các hồi cuối cùng của tập truyện thơ này bạn nhé!

Đoạn này tới thứ ra đời,
Vân Tiên thuở ấy ở nơi chùa chiền.
Nửa đêm nằm thấy ông tiên,
Đem cho chén thuốc mắt liền sáng ra.
Kể từ nhuốm bệnh đường xa,
Tháng ngày thấm thoát kể đà sáu năm.

1671. Tuổi cha rày đã năm lăm,
Chạnh lňng nhớ tới đầm đầm nhỏ sa.
Vân Tiên tính trở lại nhà,
Hớn Minh đưa khỏi năm ba dặm đường.
Tięn rằng: “Ta lại hồi hương,
“Ơn nhau sau gặp khoa trường sẽ hay.”
Minh rằng: “Tôi vốn chẳng may,
“Ngày xưa mắc phải án đày trốn đi.
“Dám đâu bày mặt ra thi,
“Đă đành hai chữ qui y chùa này.”

1681. Tiên rằng: “Phước gặp khoa này.”
“Sao sao cũng tính sum vầy cùng nhau.
“Mấy năm hẩm hút tương rau,
“Khó nghèo nỡ phụ, sang giầu đâu quên.
“Lúc hư còn có lúc nên,
“Khuyên người giữ dạ cho bền thảo ngay.”
Hớn Minh trở lại am mây,
Vân Tiên về một tháng chầy tới nơi.
Lục ông nước mắt tuôn rơi,
Ai dè còn sống trên đời thấy cha.

1691. Xóm giềng cô bác gần xa,
Đều mừng chạy tới chật nhà hỏi thăm.
Ông rằng: “Kể đă mấy năm,
“Con mang tật bệnh ăn nằm nơi nao?”
Thưa rằng: “Hoạn nạn xiết bao,
“Mẹ tôi phần mộ nơi nào viếng an?”
Đặt bày lễ vật nghiêm trang.
Đọc bài văn tế trước bàn minh sinh.
“Suối vàng hồn mẹ có linh,
“Chứng cho con trẻ lòng thành ngày nay.

1701. “Tưởng bể nguồn nước cội cây,
“Công sâu ngàn trượng, ngãi dày chín trăng.
“Suy trang nằm giá khóc măng,
“Hai mươi bốn thảo chẳng bằng đời xưa.”
Vân Tiên nước mắt như mưa,
Tế rồi hỏi việc khi xưa ở nhà.
Ông rằng: “Có nàng Nguyệt Nga,
“Bạc tiền đem giúp cửa nhà mới xuê.
“Nhờ nàng nên mới ra bề,
“Chẳng thì khó đói bỏ quê hư rồi.”

1711. Vân Tiên nghe nói hỡi ôi!
Chạnh lòng nghĩ lại một hồi giây lâu.
Hỏi rằng: “Nàng ấy ở đâu?
“Đặng con đến đó đáp câu ân tình.”
Lục ông thuật việc triều đình,
Đầu đuôi chuyện văn tỏ tình cùng Tiên:
“Kiều công rày ở Tây Xuyên,
“Cũng vì mắc nịnh biếm quyền đuổi ra.”
Tiên rằng: “Cám nghĩa Nguyệt Nga,
“Tôi xin qua đó thăm cha nàng cùng.”

1721. Tây xuyên ngàn dặm thẳng xông,
Đến nơi ra mắt, Kiều công khóc liền:
“Nguyệt Nga rày ở Tây phiên,
“Biết sao cho đặng đoàn viên cùng chàng.
“Mấy thu Hồ Việt đôi phang,
“Chẳng qua máy tạo én nhàn rẽ nhau.
“Thấy chàng dạ lại thêm đau,
“Đất trời bao nỡ chia bâu cho đành?
“Hẹp hòi đặng chút nữ sinh,
“Trông cho chồi quế trổ nhành mẫu đơn.”

1731. Nói rồi luỵ nhỏ đôi cơn,
“Cùng nhau một sự oán hờn nên gây.
“Thôi con ở lại bên này,
“Hôm mai thấy mặt cho khuây lòng già.”
Vân Tiên từ ấy lân la,
Ôn nhuần kinh sử chờ khoa ứng kỳ.

Năm sau lệnh mở khoa thi,
Vân Tiên vào tạ xin đi tựu trường.
Trở về thưa với xuân đường,
Kinh sư ngàn đặm một đường thẳng ra.

1741. Vân Tiên dự trúng khôi khoa,
Đương trong nhâm tí thiệt là năm nay,
Nhớ lời thầy nói thật hay:
“Bắc phương gặp chuột con rày nên danh.”
Vân Tiên vào tạ triều đình,
Lệnh ban y mão cho vinh về nhà.
Xảy nghe tin giặc Ô qua,
Phủ vây quan ải binh ba bốn ngàn.
Sở vương phán trước ngai vàng,
Chỉ sai quốc trạng dẹp loàn bầy ong.

1751. Trạng nguyên tâu trước bệ rồng:
Xin dâng một tướng anh hùng đề binh,
“Có người họ Hớn tên Minh,
Sức đương Hạng Võ mạnh kình Trương Phi.
“Ngày xưa mắc án đày di,
“Phải về nương náu từ bi ẩn mình.”
Sở vương phán trước triều dình,
Chỉ sai tha tội Hớn Minh đòi về.
Sắc phong phó tướng binh đề.
Tięn, Minh, từ ấy xiết gì mừng vui.

1761. Nhất thinh phấn phát oai lôi,
Tiên phuông hậu tập trống hồi tấn binh.
Quan sơn ngàn dặm đăng trình,
Lãnh cờ bình tặc phá thành Ô qua,
Làm trai ơn nước nợ nhà,
Thảo cha ngay chúa mới là tài danh.
Phút đâu binh đáo quan thành,
Ô qua xem thấy thối binh di đồn.
Tướng phiên hai gã đường đường,
Một chàng Hoả Hổ, một chàng Thần Long.

1771. Lại thêm Cốt Đột nguyên nhung,
Mắt hùm râu đỏ, tướng hung lạ lùng.
Hớn Minh ra sức tiên phong,
Đánh chàng Hoả Hổ, Thần Long một hồi.
Hớn Minh đánh xuống một roi,
Hai chàng đều bị một hồi mạng vong.
Nguyên nhung Cốt Đột nổi xung,
Hai tay xách búa đánh cùng Hớn Minh.
Hớn Minh sức chẳng dám kình,
Thấy chàng hoá phép thoát mình trở lui.

1781. Vân Tiên đầu đội kim khôi,
Tay cầm siêu bạc mình ngồi ngựa ô.
Một mình lướt trận xông vô.
Thấy ngươi Cốt Đột biến hô yêu tà.
Vội vàng trở ngựa lui ra,
Truyền đem máu chó đều thoa ngọn cờ.
Ba quân gươm giáo đều dơ,
Yęu ma xem thấy một giờ vỡ tan,
Sa cơ Cốt Đột chạy hoang,
Vân Tiên giục ngựa băng ngàn đuổi theo.

1791. Đuổi qua mới đặng bảy đèo,
Khá thương Cốt Đột vận nghèo nài bao.
Chạy ngang qua núi Ô sào,
Phút đâu con ngựa sa hào, thương ôi!
Vân Tiên chém Cốt Đột rồi,
Đầu treo cổ ngựa phản hồi bổn quân.
Ôi thôi bốn phía đều rừng,
Trời đà tối mịt lạc chừng gần xa.
Một mình lạc nẻo vào ra,
Lần theo đàng núi phút đà tam canh.

1801. Một mình trong chốn non xanh,
Không ai mà hỏi lộ trình trở ra.

Đoạn này tới thứ Nguyệt Nga,
Ở đây tính đă hơn ba năm rồi.
Đêm khuya chong ngọn đèn ngồi:
“Chẳng hay trong dạ bồi hồi việc chi,
“Quan Âm thuở trước nói chi,
“Éo le phỉnh thiếp lòng ghi nhớ hoài.
“Đã đành đá nát vàng phai,
“Đã đành xuống chốn dạ đài gặp nhau?”
Nguyệt Nga gượng giải cơn sầu,
Xảy nghe nhạc ngựa ở đâu tới nhà.
Kêu rằng: “Ai ở trong nhà,
“Đường về quan ải chỉ ra cho cùng.”
Nguyệt Nga ngồi sợ hãi hùng,
Vân Tiên xuống ngựa thẳng xông bước vào.
Lão bà lật đật hỏi chào:
“Ở đâu mà tới rừng cao một mình?”

1821. Vân Tiên mới nói sự tình:
“Tôi là quốc trạng trào đình sai ra.
“Đem binh giẹp giặc Ô qua,
“Lạc đường đến hỏi thăm nhà bà đây.”
Lão bà nghe nói sợ thay:
“Xin ông chớ chấp tôi nay mụ già.”
Vân Tiên ngồi nhắm Nguyệt Nga,
Lại xem bức tượng lòng đà sinh nghi.
Hỏi rằng: “Bức ấy tượng chi,
“Khen ai khéo vẽ dung nghi giống mình.
1831. “Đầu đuôi chưa rõ sự tình,
“Lão bà khá nói tính danh cho tường.
Lão bà chẳng dám lời gian:
“Tượng nầy vốn thiệt chồng nàng ngồi đây.”
Tiên rằng nàng xích lại đây,
“Nói trong tên họ tượng nầy ta nghe.”
Nguyệt Nga lòng rất kiên dè,
Mặt thời giống mặt còn e lạ người.
Ngồi che tay áo hổ ngươi,
Vân Tiên thấy vậy mỉm cười một khi.

1841. Rằng sao nàng chẳng nói đi,
“Hay là ta hỏi động chi chăng là?”
Nguyệt Nga khép nép thưa qua:
“Người trong bức tượng tên là Vân Tiên.
“Chàng đà về chốn cửu tuyền.
“Thiếp lăm trọn đạo lánh miền gió trăng.”
Vân Tiên nghe nói hỏi phăng:
“Chồng là tên ấy vợ là tên chi?”
Nàng bèn tỏ thiệt một khi,
Vân Tiên vội vã xuống quì vòng tay,

1851. Thưa rằng: “May gặp nàng đây,
“Xin đền ba lạy sẽ bày nguồn cơn.
“Để lời thệ hải minh sơn,
“Mang ơn trước phải đền ơn cho rồi.
“Vân Tiên vốn thiệt là tôi,
“Gặp nhau nay đã phỉ rồi ước mơ.”
Nguyệt Nga bảng lảng bơ lơ,
Nửa tin rằng bạn nửa ngờ rằng ai.
Thưa rằng: “Đă thiệt tên ngài,
“Khúc nôi xin cứ đầu bài phân qua.”

1861. Vân Tiên dẫn tích xưa ra,
Nguyệt Nga khi ấy khóc oà như mưa.
Ân tình càng kể càng ưa,
Mảng còn bịn rịn trời vừa sáng ngay.
Xảy nghe quân ó vang dầy,
Bốn bề rừng bụi khắp bày can qua.
Vân Tiên lên ngựa trở ra,
Thấy cờ đề chữ hiệu là Hớn Minh.
Hớn Minh khi ấy dừng binh,
Anh em mừng rỡ tỏ tình cùng nhau.

1871. Minh rằng: “Tẩu tẩu ở đâu,
“Cho em ra mắt chị dâu thế nào?
Vân Tiên đem Hớn Minh vào,
Nguyệt Nga đứng dậy miệng chào có duyên.
Minh rằng: “Tưởng chị ở Phiên,
“Quyết đem binh mã qua miền Ô qua.
“May đâu sum hiệp một nhà.”
“Giặc đà an giặc, khải ca hồi trào.”
Tiên rằng nàng tính thế nào?”
Nàng rằng: “Anh hãy về trào tâu lên.

1881. “Ngỏ nhờ lượng cả bề trên,
“Lệnh tha tội trước mới nên về nhà.”
Trạng nguyên từ gĩa lão bà,
Dặn dò gởi lại Nguyệt Nga ít ngày:
“Ta về đem bức tượng nầy,
“Tâu cho khỏi tội rước ngay về nhà.”
Tiên, Minh trở ngựa đều ra,
Đem binh trở lại triều ca đề huề.
Sở vương nghe trạng nguyên về,
Sai quân tiếp rước vào kề bên ngai.

1891. Sở vương bước xuống kim giai,
Tay bưng chén rượu thưởng ngài trạng nguyên,
Phán rằng: “Trẫm sợ nước Phiên,
“Có người Cốt Đột phép tiên lạ lùng.
“Nay đà trừ Cốt Đột xong,
“Thiệt trời sinh Trạng giúp trong nước nhà.
“Phải chi trước có Trạng ra,
“Làm chi nên nỗi Nguyệt Nga cống Hồ.”
Lệnh truyên mở yến trào đô,
Rày mừng trừ đặng giặc Ô qua rồi.

1901. Trạng nguyên quì tấu một hồi.
Nguyệt Nga các việc khúc nôi rõ ràng.
Sở vương nghe tấu ngỡ ngàng,
Phán rằng: “Trẫm tưởng rằng nàng ở Phiên.
“Chẳng ngờ nàng với Trạng nguyên,
“Cùng nhau trước có nhân duyên thuở đầu.”
Tháì sư trước bệ quì tâu:
“Ô qua dấy động qua mâu cũng vě.
“Trá hôn oán ấy nên gây,
“Nguyệt Nga nàng thiệt tội thì khi quân.”

1911. Trạng nguyên mặt đỏ phừng phừng,
Bèn đem bức tượng làm bằng.
Sở vương xem tượng phán rằng;
“Nguyệt Nga trinh tiết ví bằng người xưa,
“Thái sư trước chẳng lo lừa,
“Thiếu chi dân thứ phải đưa tới nàng.
“Dầu cho nhật nguyệt rõ ràng,
“Khôn soi chậu úp cũng mang tiếng đời.
“Ngay gian sao cũng có trời,
“Việc nầy vì trẫm nghe lời nên oan,

1921. Trạng nguyên tâu trước trào đàng.
“Thái sư trữ dưỡng tôi gian trong nhà.
“Trịnh Hâm là đứa gian tà,
“Hại tôi buổi trước cũng đà ghê phen.”
Sở vương phán trươc bệ tiền:
“Những ngờ tướng ngỏ tôi hiền mà thôi.
“Vậy cũng đạo chúa ngãi tôi,
“Thái sư ý muốn cướp ngôi chín trùng.
“Hán xưa có gã Đổng công,
“Nuôi thằng Lữ Bố cướp dòng nhà Lưu.

1931. “Đời xưa tôi nịnh biết bao,
“Thái sư nay cũng khác nào thời xưa.
“Thấy người trung chính chẳng ưa,
“Rấp ranh kế độc lập lừa mưu sâu.
“Trịnh Hâm tội đáng chém đầu,
“Ấy là mới hết người sau gian tà.”
Sở vương phán trước trào ca,
Thái sư cách chức về nhà làm dân,
Trịnh Hâm là đứa bạo thần,
Giao cho quốc trạng xử phân pháp hình.

1941. Nguyệt Nga là gái tiết trinh,
Sắc phong quận chúa hiển vinh rỡ ràng.
Kiều công xưa mắc tội oan,
Trẫm cho phục chức làm quan Đông thành.
Trạng nguyên dẹp giặc đã thành,
Kiệu trương tán phụng cho đành vinh hoa.
Bãi chầu chư tướng trở ra,
Trạng nguyên mời hết đều qua dinh ngồi.
Họ Vương, họ Hớn, họ Bùi,
Cùng nhau uống rượu, đều vui, đều cười.

1951. Trạng nguyên mới hỏi một lời:
“Trịnh Hâm tội ác các người tính sao?”
Truyền quân dẫn Trịnh Hâm vào,
Mặt nhìn khắp hết miệng chào các anh,
Minh rằng: “Ai mượn kêu anh?
“Trước đà đem thói chẳng lành thời thôi.
“Kéo ra chém quách cho rồi,
“Để chi gai mắt đứng ngồi căm gan.”
Trực rằng: “Minh nóng nói ngang,
“Giết ruồi đâu xứng gươm vàng làm chi.

1961. “Xưa nay mấy đứa vô nghě,
“Dầu cho có sống làm gì nên thân?”
Hâm rằng: “Nhờ lượng cố nhân,
“Vốn em mới dại một lần xin dung.
Trạng rằng: “Hễ đứng anh hùng,
“Nào ai có giết đứa cùng làm chi.
“Thôi thôi ta cũng rộng suy,
“Truyền quân mở trói đuổi đi cho rồi.
Hâm rằng: “Khỏi giết rất vui,”
Vội vàng cúi lạy chân lui ra về.

1971. Còn ngươi Bùi Kiệm máu dê,
Ngồi chai bề mặt như về thịt trâu.
Hớn Minh, Tử Trực vào tâu,
Xin đưa quốc trạng kịp chầu vinh qui.
Một ngươi Bùi Kiệm chẳng đi,
Trong lòng hổ thẹn mình vì máu dê.
Trạng mguyên xe giá chỉnh tề,
Sai quân hộ vệ rước về Nguyệt Nga.
Bạc vàng đem tạ lão bà,
Nguyệt Nga từ tạ thẳng qua Đông thành.

1981. Võng điều, gươm bạc, lọng xanh,
Trạng nguyên, Tử trực, Hớn Minh lên đàng.
Trịnh Hâm về tới Hàn giang,
Sóng thần nổi dậy thuyền chàng chìm ngay.
Trịnh Hâm bị cá nuốt rày,
Thiệt trời báo ứng lẽ nầy rất ưng.
Thấy vầy nên dửng dừng dưng,
Làm người ai nấy thì đừng bất nhân.
Tiểu đồng trước giữ mộ phần,
Ngày qua tháng lại đă gần ba năm.

1991. Của đi khuyến giáo mấy năm,
Tính đem hài cốt về thăm quê nhà.
Hiềm chưa thuê đặng người ta,
Còn đương thơ thẩn vào ra Đại đề.
Trạng nguyên khi ấy đi về,
Truyền quân bày tiệc, lo bề tế riêng:
“Tiểu đồng hồn bậu có thiêng,
“Thảo tình thầy tớ lòng thiềng ngày nay.”
Đọc văn nhớ tới châu mày,
Đôi hàng luỵ ngọc tuôn ngay ròng ròng.

2001. Người ngay Trời Phật động lòng,
Phút đâu ngó thấy tiểuđồng đến coi.
Trạng nguyên còn hãy sụt sùi,
Ngó lên bài vị lại xui lòng phiền.
Tiểu đồng nhắm ngửa nhěn nghiêng:
“Ông nầy sao giống Vân Tiên cũng kỳ?
“Ông nào mất xuống âm ti,
“Ông nào còn sống nay thì làm quan?”
Trạng nguyên khi ấy hỏi chàng:
“Phải ngươi Đồng tử mắc nàn chốn ni?”

2011. Mấy năm tớ mới gặp thầy,
Cůng nhau kể nỗi đắng cay từ ngằn.
“Ai dè còn thấy bổn quan,
“Ba năm gěn giữ mồ hoang đă rồi.”
Trạng nguyên khi ấy mừng vui,
Tớ thầy sum hiệp tại nơi Đại đề.
Tuần du phút đă gần kề Hàn giang.
Võ Công từ xuống xuối vàng,
Thể Loan cùng mụ Quỳnh Trang đeo sầu.

2021. Mẹ con những mảng lo âu,
Nghe Vân Tiên sống gặp chầu công danh.
Cùng ta xưa có ân tình,
Phải ra đón rước lộ trình hoạ may.
Loan rằng: “Mình ở chẳng hay,
“E người còn nhớ những ngày trong hang.”
Trang rằng: “Con có hồng nhan,
“Cho chàng thấy mặt thời chàng cũng ưa.
“Ví dầu còn nhớ tích xưa,
“Mẹ con ta lại đổ thừa Võ Công,”

2031. Cùng nhau bàn luận đă xong.
Soi gương đánh phấn ra phòng rước duyên.
Nay đà tới thứ Trạng nguyên,
Hàn giang đă tới bỗng liền đóng quân.
Bạc vàng, châu báu, áo quần,
Trạng nguyên đem tạ đáp ơn ngư, tiều,
Ngư, tiều nay đặng danh bàu,
Ơn ra một buổi của nhiều trăm xe.
Trạng nguyên chưa kịp trở về,
Thấy Quỳnh Trang đă đứng kề trong quân.

2041. Trang rằng: “Tưởng chữ hôn nhân,
“Mẹ con tôi đến lễ mừng Trạng nguyên.
“Võ Công đă xuống huỳnh tuyền,
“Xin thương lấy chút thuyền quyên phận nầy.”
Trạng rằng: “Bưng bát nước đầy,
“Đổ ngay xuống đất hốt rày sao xong.
“Oan gia nợ ấy trả xong.
“Thiếu chi nên nỗi mà mong tới đòi.”
Hớn Minh, Tử Trực đứng coi,
Cười rằng: “Hoa khéo làm mồi trêu ong.

2051. Khen cho lòng chẳng thẹn lòng,
“Còn mang mặt đến đčo bòng nỗi chi?
“Ca ca sao chẳng chịu đi.
“Về cho tẩu tẩu để khi xách giày.”
Mẹ con đứng thẹn thuồng thay,
Vội vàng cúi lạy chân rày trở ra.
Trở về chưa kịp tới nhà,
Thấy hai con cọp chạy ra đón đàng.
Thảy đều bắt mẹ con nàng,
Đem vào lại bỏ trong hang Thương tòng

2061. Bốn bề đá lấp bịt bùng,
Mẹ con than khóc khôn trông ra rồi.
Trời kia quả báo mấy hồi,
Tiếc công son điểm phấn dồi bấy lâu.
Làm người cho biết ngãi sâu,
Gặp cơn hoạn nạn cùng nhau cho tròn.
Đừng đừng theo thói mẹ con,
Thác đà mất kiếp, tiếng còn bia danh.
Trạng nguyên về đến Đông thành,
Lục ông trước đă xây dinh ở làng.

2071. Bày ra sáu lễ sẵn sàng,
Các quan đi họ cưới nàng Nguyệt Nga.
Sui gia đă xứng sui gia,
Rày mừng hai họ một nhà thành thân.
Trăm năm biết mấy tinh thần,
Sinh con sau nối gót lân đời đời.

Trên đây là toàn bộ các hồi của tập truyện thơ Lục Vân Tiên hay đặc sắc mà chúng tôi muốn chia sẻ với bạn. Với tập thơ này bạn sẽ hiểu thêm về phong cách sáng tác của nhà thơ. Cũng như tinh thần, khát vọng của nhân dân trong việc hướng tới cái thiện, cái công bằng và những điều tốt đẹp trong cuộc sống này. Đó cũng chính là những tư tưởng mà nhà thơ muốn chuyển tải thông qua tác phẩm của mình.

Related posts

Bài thơ Gửi ông Táo đôi lời – Nhà thơ Nguyễn Đình Huân

admin

Bài thơ Tâm sự cùng đồng đội – Nhà thơ Nguyễn Đình Huân

admin

Bài thơ Cơn Mưa Ngày Xưa – Nhà thơ Phú Sĩ

admin

Leave a Comment