Nhà Thơ Nổi Tiếng

Tuyển chọn những bài thơ dịch Phạm Hổ hay nhất mọi thời đại phần 3

Tuyển chọn những bài thơ dịch Phạm Hổ hay nhất mọi thời đại sẽ mang đến cho các bạn những bài thơ hay và nổi tiếng của nhiều nhà thơ nổi tiếng trên thế giới được Phạm Hổ dịch. Qua đó ta có thể khẳng đi được khả năng cũng như sự hiểu biết uyên thâm của nhà thơ. Nếu bạn muốn sưu tầm những bài thơ hay và mới lạ thì đây sẽ là một bài viết hữu ích dành cho bạn. Đừng bỏ lỡ nhé!

Nội Dung

1
Il pleuvait fort sur la grand’route
Ell’ cheminait sans parapluie
J’en avais un, volé, sans doute
Le matin même à un ami
Courant alors à sa rescousse
Je lui propose un peu d’abri
En séchant l’eau de sa frimousse
D’un air très doux, ell’ m’a dit “oui”
Refrain:
Un p’tit coin d’parapluie
Contre un coin d’paradis
Elle avait quelque chos’ d’un ange
Un p’tit coin d’paradis
Contre un coin d’parapluie
Je n’perdais pas au chang’, pardi
2
Chemin faisant, que ce fut tendre
D’ouïr à deux le chant joli
Que l’eau du ciel faisait entendre
Sur le toit de mon parapluie
J’aurais voulu, comme au déluge
Voir sans arrêt tomber la pluie
Pour la garder, sous mon refuge
Quarante jours, quarante nuits
(Refrain)
3
Mais bêtement, même en orage
Les routes vont vers des pays
Bientôt le sien fit un barrage
A l’horizon de ma folie
Il a fallu qu’elle me quitte
Après m’avoir dit grand merci
Et je l’ai vue toute petite
Partir gaiement vers mon oubli
(Refrain)

Dịch

1
Trời mưa to trên con đường lớn
Cô nàng bước đi không có ô
Tôi có một, mới vừa phỗng được
Chạy đuổi theo nàng để cứu giúp
Tôi mời nàng cùng chung ô với tôi
Vừa lau khô nước mưa trên mặt
Rất đỗi dịu dàng nàng nhận lời…
Điệp khúc:
Một góc ô nho nhỏ
Đổi lấy thiên đường
Nàng có một chút gì như thiên sứ, thật dễ thương
Một góc nhỏ ở thiên đường
Đổi lấy một góc ô
Tôi có thiệt gì đâu nhỉ
Ô hô hô!
2
Dọc đường, sao mà êm dịu
Cả hai cùng nghe tiếng nhạc xinh xinh
Của những giọt mưa thánh thót
Gõ trên mái chiếc ô mình
Tôi cứ muốn như trong cơn hồng thuỷ
Nhìn trời mưa, mưa cứ liên miên
Để giữ nàng trong vòng tôi che chở
Suốt bốn mươi ngày, suốt bốn mươi đêm!
(trở lại điệp khúc)
3
Nhưng tai hại quá, dù trong mưa bão
Những con đường đều dẫn đến những nơi ở khác nhau
Chỗ rẽ đến nơi nàng, đã cắt ngang, ác nghiệt
Nỗi say mê cuồng nhiệt của tôi
Phải chia tay với nàng rồi
Nàng vừa nói: Cám ơn anh nhiều lắm!
Và tôi nhìn theo cái dáng hình nhỏ nhắn
Vui vẻ đi dần về phía trời quên lãng của tôi
(trở lại điệp khúc)

Où es-tu toi dans moi qui bouge
Toi qui flambe dans moi soudain
Et ce mouvement de ta main
Pour mettre à tes lèvres du rouge.
Où es-tu plaisir de ma nuit
Ma fugitive passagère
Ma reine aux cheveux de fougère
Et aux yeux couleur de pluie.
J’attends la minute où tu passe
Comme la terre le printemps
Et l’eau dormante de l’étang
La rame glissant sur sa face.
Dans mon cadre profond et sombre
Je t’offre mes regards secrets
Approche-toi plus près, plus près
Pour occuper toute mon ombre.
Envahis moi comme une armée
Prends mes plaines, prends mes collines
Les parcs, les palais, les saline
Les soirs, les songes, les fumées…
…Reviens visage à mon visage
Mets droit tes grands yeux dans tes yeux
Rends moi les nuages des cieux
Rends moi la vue et tes mirages…

Dịch

Nàng đâu rồi nàng mà trong tôi động đậy
Nàng mà trong tôi bỗng thấy sáng bừng
Và dáng điệu tay nàng
Khi thoa lên môi thắm đẹp màu son
Nàng đâu rồi niềm vui ban tối của tôi
Người đẹp thoáng qua và vội vàng biến mất
Nữ hoàng của tôi bồng bềnh mái tóc
Và với đôi mắt đẹp màu mưa
Tôi đợi chờ giây phút nàng lướt qua
Như mặt đất chờ mùa xuân toả đến
Như nước hồ ao ngủ lặng
Chờ êm êm nhẹ lướt mái chèo
Trong vòng khung sâu thẳm âm thầm
Tôi dâng nàng những cái nhìn thầm kín
Nàng hãy đến gần gần hơn gần nữa
Để chiếm lấy bóng tôi chiếm lấy hoàn toàn
Hãy chiếm lấy tôi như một đạo quân
Hãy đoạt lấy những đồng bằng đồi núi
Những công viên lâu đài ruộng muối
Những giấc mơ những làn khói những ban đêm…
…Nàng hãy đến đây mặt liền sát mặt
Hãy soi đôi mắt nàng to vào thẳng mắt nàng
Nàng hãy trả tôi mây các khoảng trời xanh
Trả tôi cái nhìn và những gì nàng mộng ước…

Ces vers toute la nuit sans répit répétés
aragon elsaIls ont tourné dans ma tête comme des mouches
Ils ont tourné comme des mouches dans ma bouche
Et quand a pâli le ciel ils m’ont déserté
Je ne suis qu’un miroir aveugle du sommeil
Il n’y avait que toi durant mes insomnies
Que toi dans le refrain de ces mots mal unis
Toi seule encore dans mes rêves de réveil
Qu’est-ce qui les liait ces mots qui se délient
Qu’est-ce qui leur faisait cette saveur d’alcool
De livre qu’on lisait en cachette à l’école
L’écho s’en perd et meurt comme un parfum s’oublie
Comment recomposer les stances du poème
Qui m’a paru si beau lorsque je l’épelais
J’aurais voulu le retenir et je tremblais
Et j’en recommençais toujours le début même
Ce qui s’est envolé là comme un oiseau bleu
A laissé dans mon cœur une sorte d’abîme
Je ne suis qu’une rime qui cherche une rime
Comme une main qui s’ouvre en vain pour voir s’il pleut
Mais une chose du moins une chose est sûre
La musique en naissait au profond de mon sang
C’était un de ces airs que reprend le passant
Et qui semblent sortir du cœur de sa blessure
Ces fantômes de chant l’aurore les nettoie
Et la main du soleil revenu les disperse
Quand le grand jour m’en a lavé de son averse
Ce que j’en puis savoir c’est qu’ils parlaient de toi

Dịch

Những câu thơ nhẩm đọc suốt đêm dài
Những câu thơ trong đầu anh bay lượn tựa đàn ruồi
Tựa đàn ruồi trong mồm anh bay lượn
Trời chuyển sáng chúng vù bay mất bóng

Anh chỉ là tấm gương mù của giấc ngủ
Chỉ có em trong thao thức của anh
Chỉ có em trong những chữ ghép vụng vần
Lại chỉ mình em trong mơ màng khi tỉnh giấc

Gì đã ghép những chữ giờ tan rã
Chúng nhờ đâu mà có vị của rượu ngon
Của sách hay lén đọc thầm trong lớp
Âm hưởng phai dần quên lãng tựa mùi hương

Có cách gì ghép lại đủ bài thơ
Mà anh thấy hay khi đọc thầm từng chữ
Mà anh run run lo và cố tình gìn giữ
Và cứ nhẩm đi nhẩm lại đoạn vào đầu

Những gì đó đã bay đi như bóng chim xanh
Đã để lại trong tim anh một thứ gì như vực thẳm
Giờ anh như một vần thơ đi tìm gặp một vần thơ
Một bàn tay không thể mở ra để xem trời có mưa

Nhưng ít ra cũng một điều một điều chắc chắn
Nhạc điệu thơ đã trỗi tự máu tim anh
Như một trong trăm nghìn điệu hát người qua đường vẫn hát
Những lời ca như từ giữa vết thương lòng bay thoát

Những bóng dợn lời ca mà bình minh xoá sạch
Mà bàn tay mặt trời lên tung tán khắp miền
Trời sáng rõ đã làm anh tỉnh hẳn
Anh hiểu rồi chúng đã nói về em

Toutes les routes de la France
Ruissellent d’hommes vers Paris
Et des pancartes se balancent
Ou mille fois la Paix fleurit
Je me souviens d’une autre foule
Comme un sang qui fuyait le coeur
Tout le pays qui part et roule
Dans la charrette du malheur
Interminables caravanes
L’exode avait ouvert les vannes
Alors la patrie s’en allait
Et l’eau du peuple s’ecoulait
Aujourd’hui c’est dans l’autre sens
La mort ajourne sa polka
Le printemps ici joue sa chance
Ecoutez les harmonicas
Sur des kilometres de rires
La jeunesse entre dans le jeu
Il est des chants qui font courir
Cornez cornez voitures bleues
Prenez garde aux enfants qui cueillent
Sur les chemins ou vont passer
Aux arbres verts leurs jeunes feuilles
De jaunes fleurs dans les fosses
Le ciel est tendre et les gens droles
Il en vient n’importe comment
Et les cyclistes par l’epaule
Se tiennent l’un l’autre gaiement
Je me souviens c’etait naguere
Quelqu’un la-haut plantait des clous
O tintamarre de la guerre
Les avions piquaient sur nous
Qu’il est difficile d’y croire
Quand partout voyez nous croisons
De grands oiseaux blancs sur fond noir
Placardes contre nos maisons

Dịch

Tất cả những ngả đường nước Pháp
Ồ ạt chảy người về Pari
Và hoà bình nghìn lần nở rạng
Trên những băng cờ đong đưa kéo đi
Tôi nhớ đến một dòng người khác
Như máu hồng phải chảy xa tim
Cả đất nước ra đi và lăn bánh
Trên chiếc xe đau khổ mang tên
Những dòng người tưởng dài không hết
Cuộc sống tản cư đã mở hết cửa rồi
Cả Tổ quốc ra đi và rảo bước
Nhân dân như dòng nước lặng trôi
Nay họ về, ngược dòng thuở nọ
Điệu nhảy buồn của thần chết đã xa
Mùa xuân ở đây đang vui hạnh phúc
Hãy nghe tiếng kèn harmonicas
Trên những cây số tiếng cười
Tuổi trẻ tưng bừng nhập hội
Có những bài ca làm ta muốn chạy nhanh
Bóp còi bóp còi đi! Hỡi những chiếc xe xanh
Hãy cẩn thận vì những em bé nhỏ
Hái hoa vàng trên những hố cạnh đường
Trên đại lộ những chòm cây biếc
Đang chuyển mình trổ những lá non
Trời hiền dịu và mọi người đều ngộ nghĩnh
Họ cứ thế kia đủ các kiểu kéo về
Đấy những tướng ngồi trên xe đạp
Vui bá vai nhau từng tốp dìu đi
Tôi lại nhớ một ngày thuở trước
Trên trời cao, ai dồn búa đóng đinh
Tiếng nổ vỡ của chiến tranh tàn khốc
Những máy bay đâm bổ xuống đầu mình
Thật là khó, khó mà tưởng tượng
Ngày hôm nay đâu ta cũng gặp nhìn
Dán vách nhà ta những con chim lớn
Trắng mát màu lông trên một nền đen.

Ezernyolcszáznegyvennyolc, te csillag,
Te a népek hajnalcsillaga!…
Megviradt, fölébredett a föld, fut
A hajnaltól a nagy éjszaka.
Piros arccal
Jött e hajnal,
Piros arca vad sugára
Komor fényt vet a világra;
E pirúlás: vér, harag és szégyen
A fölébredt nemzetek szemében.
Szégyeneljük szolgaságunk éjét,
Zsarnokok, rátok száll haragunk,
S a reggeli imádság fejében
Istenünknek vérrel áldozunk.
Álmainkban
Alattomban
Megcsapolták szíveinket,
Hogy kioltsák életünket,
De maradt még a népeknek vére
Annyi, ami fölkiált az égre.
Áll a tenger nagy elbámultában,
Áll a tenger és a föld mozog,
Emelkednek a száraz hullámok,
Emelkednek rémes torlaszok.
Reng a gálya…
Vitorlája
Iszaposan összetépve
A kormányos szíve képe,
Aki eszét vesztve áll magában
Beburkolva rongyos bíborában.
Csatatér a nagyvilág. Ahány kéz,
Annyi fegyver, annyi katona.
Mik ezek itt lábaim alatt?… hah,
Eltépett lánc s eltört korona.
Tűzbe véle!…
No de mégse,
Régiségek közé zárjuk,
De nevöket írjuk rájuk,
Különben majd a későn-születtek
Nem tudnák, hogy ezek mik lehettek.
Nagy idők. Beteljesült az Írás
Jósolatja: egy nyáj, egy akol.
Egy vallás van a földön: szabadság!
Aki mást vall, rettentőn lakol.
Régi szentek
Mind elestek,
Földúlt szobraik kövébül
Uj dicső szentegyház épül,
A kék eget vesszük boltozatnak,
S oltárlámpa lészen benne a nap!

Dịch

Một nghìn tám trăm bốn tám: ngôi sao sáng
Ngôi sao mai, bình minh các dân tộc
Và ngày đã lên, quả đất thức dậy rồi
Bình minh đến gần, đêm tối vội tháo lui
Khuôn mặt đỏ
Và trán của rạng đông phản chiếu xuống thế gian
Một tia nắng dữ dội, một ánh sáng âm thầm
Đó là màu đỏ của máu, của hờn căm, nhục nhã
Trong ánh mắt, bao dân tộc ngẩng đầu
Đêm nô lệ đã làm ta xấu hổ
Hỡi loài bạo tàn, nỗi căm hờn ta sẽ trút xuống đầu bay
Trước giờ cầu khẩn ban mai
Chúng ta sẽ lấy máu rửa bàn thờ Thượng đế
Trong khi ta ngủ
Kẻ thù chúng ta đã hèn hạ
Đâm chúng ta rớm máu ở tim
Hòng làm lụi tàn ngọn lửa đời ta
Nhưng trong mạch máu các dân tộc hãy còn đủ máu
Để tội ác chúng làm, đến trời xanh dội thấu
Và biển dựng lên, im lìm kinh ngạc
Và biển dựng lên và quả đất chuyển rung
Sóng biển xô nhau, trào lên, dữ dội
Cuốn lên thành bao tường luỹ kinh hồn
Thuyền chòng chành nghiêng ngả
Buồm bẩn rách tươm
Giống như quả tim người hoa tiêu
Đầu óc tê đi trong cơn dày xé
Một mình chỉ một mình đứng thẳng trong màu đỏ áo rách xơ
Quả đất là một bãi chiến trường rộng lớn
Mỗi con người, một chiến sĩ, mỗi bàn tay, một lưỡi gươm
Và tôi thấy gì ở dưới chân tôi
Những xiềng xích gãy tung, những ngai vàng sụp đổ
Hãy ném chúng vào trong lửa
Hay không! không!
Chúng ta sẽ đưa chúng vào viện bảo tàng
Dán nhãn hiệu rõ ràng
Nếu không sau này những lớp con lớp cháu
Nhìn đống sắt vụn này, làm sao hiểu thấu
Thời đại lớn lao! Sự tiên đoán của chữ viết giờ đây thực hiện
Một đàn thôi, và chỉ một gia đình
Còn tự do, tất cả mọi người chung ở đấy niềm tin
Những tượng thánh cổ xưa
Đã bị đổ nhào
Đá tạc chúng sẽ trở về với đất
Nhà thờ mới thiêng liêng sẽ được dựng xây
Nóc nhà thờ là bầu trời xanh thẳm
Chiếu sáng nhà thờ là mặt trời đây

Mi ne győznénk? hisz Bem a vezérünk,
A szabadság régi bajnoka!
Bosszuálló fénnyel jár előttünk
Osztrolenka véres csillaga.
Ott megy ő, az ősz vezér; szakálla
Mint egy fehér zászló lengedez;
A kivívott diadal utáni
Békeségnek a jelképe ez.
Ott megy ő, a vén vezér, utána
A hazának ifjusága mi,
Igy kisérik a vén zivatart a
Tengerek szilaj hullámai.
Két nemzet van egyesűlve bennünk,
S mily két nemzet! a lengyel s magyar!
Van-e sors, amely hatalmasabb, mint
E két nemzet, ha egy célt akar?
Egy a célunk: a közös bilincset
Összetörni, melyet hordozánk,
S összetörjük, esküszünk piros mély
Sebeidre, megcsufolt hazánk!
Küldd elénk, te koronás haramja,
Légiónként bérszolgáidat,
Hogy számodra innen a pokolba
Holttestökbül építsünk hidat.
Mi ne győznénk? hisz Bem a vezérünk,
A szabadság régi bajnoka!
Bosszuálló fénnyel jár előttünk
Osztrolenka véres csillaga!

Dịch

Nhất định rồi, chúng ta sẽ thắng, Bem là lãnh tụ của chúng ta
Bem, người lão anh hùng của tự do
Và Ốt-strô-len-ka, ngôi sao đẫm máu
Đi tiên phong loé sáng căm thù
Người đi tiên phong, vị lãnh tụ tóc hoa râm
Như cờ bay, phất phơ chòm râu trắng
Tượng trưng cho hoà bình, phần thưởng ngày mai
Đang chờ chúng ta khi chúng ta chiến thắng
Người đi tiên phong, vị lão tướng và theo sau
Tất cả chúng ta, tuổi thanh xuân Tổ quốc
Dữ dội như một cơn bão nghìn xưa
Có biển sóng ầm ầm theo sát gót
Trong chúng ta, hai dân tộc đã hoà chung
Ba Lan và Hung, đẹp sao hai dân tộc
Có sức mạnh nào có thể mạnh hơn
Khi sự kết đoàn nhằm chung một đích
Một đich chung, bẻ gãy xích xiềng
Những vòng sắt chúng ta cùng đeo nặng
Sẽ bẻ tan, chúng ta thề trên những vết thương tươm đỏ máu
Của hai dân tộc chúng ta bị thoá mạ ê chề
Còn mi thằng kẻ cướp, đội mão vua
Mi có thể ném vào chúng tao những đoàn quân đánh mướn
Chúng ta sẽ lấy xác chúng xây cầu
Dẫn mi thẳng về địa ngục
Nhất định rồi, chúng ta sẽ thắng – Bem là lãnh tụ chúng ta
Bem, người lão anh hùng của tự do
Và Ốt-strô-len-ka, ngôi sao đẫm máu
Đi tiên phong, loé sáng căm thù

Konduljanak meg a vészharangok!
Nekem is egy kötelet kezembe!
Reszketek, de nem a félelemtől;
Fájdalom és düh habzik szivembe’!
Fájdalom, mert düledék hazámra
Uj viharnak közeledtét látom,
És düh, és düh, mert tétlenkedünk, mert
Nem szakad le szemünkről az álom.
Pillanatra fölriadt e nemzet,
S szétnézett, mi zaj van a világban?
És a másik oldalára fordult,
S mostan ujra aluszik javában.
Ébredj, ébredj, istenverte nemzet,
Aki ott az elsők közt lehetnél,
S kárhozatos lomhaságod által
Mindig hátul és alant hevertél!
Ébredj, hazám, mert ha most nem ébredsz,
Soha többé nem lesz ébredésed,
S ha ébredsz is, annyi időd lesz csak,
Míg nevedet sírkövedre vésed!
Föl, hazám, föl! százados mulasztást
Visszapótol egy hatalmas óra,
“Mindent nyerni, vagy mindent veszítni!”
Ezt írjuk föl ezer lobogóra.
Oly sokáig tengődtünk mi úgy, hogy
Volt is, nem is a mienk az ország;
Valahára mutassuk meg már, hogy
Senkinek sincs semmi köze hozzánk.
Vagy ha végzés, hogy el kell enyésznünk,
Irtsanak ki hát ezen világból!…
A haláltól, nem tagadom, félek,
De csupán a becstelen haláltól.
Haljunk meg, ha nem szabad már élnünk,
Haljunk meg oly szépen, oly vitézül,
Hogy azok is megsirassanak, kik
Eltörölnek a földnek szinérül!
Legyen olyan minden ember, mintha
Zrínyi Miklós unokája volna,
Harcoljon ugy minden ember, mintha
Egyedül rá támaszkodnék honja!
Oh de akkor, akkor nem veszünk el,
Akkor élet és dicsőség vár ránk,
Akkor saját örök birtokunk lesz,
Ami után eddig csak sovárgánk.
Föl hazám, föl nemzetem, magyar nép!
Lépj a síkra gyorsan és egyszerre,
Mint a villám oly váratlanúl és
Oly erővel törj ellenségedre.
Hol az ellen, kérdezed? ne kérdezd,
Mindenütt van, ahová tekintesz,
S legnagyobb és legveszélyesebb az,
Ki mint testvér símul kebleinkhez.
Köztünk van a legnagyobb ellenség,
A cudar, az áruló testvérek!
S egy közűlök százakat ront el, mint
A pohár bort az egy cseppnyi méreg.
A halálos itéletet rájok!
Százezerszer sujtson bár a hóhér,
Bár a házak ablakán foly is be
Az utcáról a kiáradó vér!
Könnyü bánni külső elleninkkel,
Ha kivesznek e belső bitangok…
Félre most, lant… futok a toronyba,
Megkondítom azt a vészharangot!

Dịch

Hãy kéo lên những hồi chuông báo động
Tự tay tôi, tôi kéo mạnh dây chuông
Và tôi run, không phải vì khiếp sợ
Tràn ngập tim tôi: đau xót, giận hờn
Tôi đau xót vì thấy cơn giông tố mới
Đang đe doạ Tổ quốc tôi, hiện còn tàn phá
Giận hờn, giận hờn vì chúng ta đã chịu buông tay
Và giấc ngủ dài trĩu nặng mắt ta đây
Một ngày qua, đất nước đã giật mình
Lo lắng nghe địa cầu xục rục
Rồi đất nước lại từ từ quay mặt
Ngủ tiếp thêm giấc ngủ triền miên
Đất nước khốn cùng, hãy mau thức dậy
Người có thể tiến lên phía trước ở hàng đầu
Nhưng người hãy còn mơ màng giấc ngủ
Và tụt dài, tụt mãi ở đằng sau
Giờ phút chót, đất nước ơi, thức dậy
Đừng để cho giấc ngủ nuốt luôn người
Nếu chậm trễ, khi bừng tỉnh giấc
Chỉ còn để ghi tên lên bia mộ mà thôi
Vùng lên! Đất nước vùng lên! Và chuộc lại
Trong một ngày, những lầm lỗi đã qua
“Mất tất cả, hay được trong tay tất cả!”
Hãy xem câu kia như khẩu hiệu dưới cờ
Chúng ta cam tâm sống tăm tối lâu rồi
Đến đất nước hôm nay không thuộc về ta nữa
Hãy làm cho mọi người thấy rõ
Không còn kẻ nào đến làm chủ nước ta
Nếu số phận muốn chúng ta phải chết
Thì chúng cứ đến đây tiêu diệt chúng ta
Tộ sợ chết, nhưng tôi thú thật
Chỉ sợ thôi, cái chết xấu xa
Chúng ta sẽ chết, nếu cần phải chết
Nhưng chúng ta phải biết chết anh hùng
Những kẻ nào đã đày đoạ ta tàn khốc
Phải làm cho chúng nó khóc thảm thương
Trong mỗi người chúng ta, hãy sống lại
Người cháu của Người, hỡi Mích-lốt Zri-ny
Khi chiến đấu chúng ta hãy nhớ
Rằng Tổ quốc thân yêu đang giao phó ở ta đây
Thì lúc đó ta sẽ thành vô địch
Cuộc sống, vinh quang, đều chờ đón chúng ta
Và lúc đó sẽ về ta vĩnh viễn
Của cải mà ta không có được hôm qua
Vùng lên Tổ quốc, vùng lên dân tộc nước Hung
Hãy xông ra trận tiền nhất loạt
Nhanh như làn chớp loé ngời
Và dữ dội bất ngờ, hãy lao vào kẻ địch
Và địch ở đâu? Ồ, đừng hỏi
Địch cùng cùng, bạn nhìn đâu cũng thấy
Nhưng nguy hiểm vô cùng vẫn là hắn đấy
Thằng địch trốn vào tim ta như một bạn hiền
Thằng gian giảo nhất đang lẫn trong chúng ta
Đó là thằng em nhuốc nhơ và thằng phản bội
Một đứa hư làm hại cả đám đông
Như thuốc độc len hoà trong cốc rượu
Hãy giết chết những thằng thế đó
Dẫu người thi hành lệnh ấy có già tay
Gieo máu đỏ trên những đường thành phố
Đến cửa sổ kia máu cũng dâng đầy
Chúng ta sẽ đuổi quân thù không nhọc mệt
Nếu những thằng gian loại ấy bị tiêu trừ
Tôi tạm gác thơ ca – và chạy nhanh lên gác
Kéo những hồi chuông báo động nơi nơi

Miért vagy oly kevély, te palota?
Uradnak fényében kevélykedel?…
Azért van rajta gyémánt, hogy szive
Mezítelenségét takarja el.
Szakítsd le a cafrangokat,
Mit rá szolgája aggatott,
S nem ismersz isten munkájára,
Oly nyomorúság marad ott.
S hol vette gazdád ama kincseket,
Mik semmiből őt mindenné teszik?
Ott, hol a héja a kis madarat,
Mit szétszakít, melynek vérén hizik.
A héja vígan lakomáz,
S szomszéd bokornak fészkiben
Madárfiúk zokognak, várván
Anyjokra, mely meg nem jelen.
Fitogtasd csak, te gőgös palota,
Az orzott kincsek ragyogásait,
Ragyogj csak, ugysem ragyogsz már soká,
Meg vannak már számlálva napjaid.
S kivánom, hogy minél elébb
Láthassam omladékodat,
S hitvány lakóid összezúzott
Csontját az omladék alatt! – –
S te kis kunyhó a magas palota
Szomszédságában, mért szerénykedel?
Miért bújtál a lombos fák mögé,
Azért-e, hogy inséged födjed el?
Fogadj be, kis sötét szoba;
Nekem nem kell szép öltözet,
De szép szív… s a sötét szobákban
Találni fényes szíveket.
Szent a küszöb, melyen beléptem én,
Oh szent a szalmakunyhók küszöbe!
Mert itt születnek a nagyok, az ég
A megváltókat ide küldi be.
Kunyhóból jő mind, aki a
Világnak szenteli magát,
S a nép mégis mindenfelől csak
Megvetést és inséget lát.
Nem féljetek, szegény jó emberek,
Jön rátok is még boldogabb idő;
Ha mult s jelen nem a tiétek is,
Tiétek lesz a végtelen jövő. –
A földre hajtom térdemet
E szűk, de szent födél alatt:
Adjátok rám áldástokat, s én
Rátok adom áldásomat!

Dịch

Hỡi lâu đài, vì đâu mi tự kiêu đến thế
Có phải vì chủ mi bóng lộn mĩ miều?
Đầy người chủ mi, kim cương lấp lánh
Chỉ cốt giấu che một quả tim nghèo
Hãy vứt bỏ gấm nhung trên người họ
Những gấm nhung bao kẻ hầu hạ đắp lên
Bàn tay Thượng đế không còn nữa
Chỉ còn trơ một ít bùn đen
Chủ mi lấy đâu ra bao của cải
Những thứ làm cho hắn có uy quyền?
Ở nơi loài diều hâu vồ con chim mẹ
Và xé nát ra, uống máu triền miên
Trong lúc diều hâu ngon tiệc máu
Trong tổ chim ở bụi gần bên
Đàn chim nhỏ khóc gào gọi mẹ
Ôi, vắng mãi rồi, bóng dáng mẹ chim
Hỡi lâu đài tự kiêu, hãy phô trương cho mọi người cùng thấy
Những kho tàng rực rỡ, cướp mang về
Hãy cứ chói ngời lên, không lâu nữa
Vì giờ mi tắt thở đã gần kề
Và ta muốn mau mau được thấy
Những bức tường của mi rạn nứt lung lay
Khi sụp đổ sẽ nghiền tan xác
Những thằng khốn nạn, chủ mi
Và hỡi người, túp lều tranh khiêm tốn
Nép bên chân bóng lộn lâu đài
Sao cứ nấp mình dưới cành lá rậm
Người muốn giấu che sự nghèo khổ muôn đời?
Hãy mở cửa cho tôi, túp lều tăm tối
Có cần chi những trang sức bên ngoài
Tôi yêu một quả tim chân thật
Trong bóng tối túp lều, bao ánh sáng rạng soi
Thiêng liêng sao ngưỡng cửa tôi bước qua
Ngưỡng cửa những túp lều thiêng liêng thật
Ở nơi đây những tâm hồn lớn ra đời
Ở nơi đây Thượng đế tin giao những người cứu thế
Chính từ những túp lều tranh xuất hiện
Những con người vì nhân loại hiến thân
Những kẻ nhè đầu dân cưỡi cổ
Chỉ thí cho dân: khinh ghét, nghèo nàn
Hỡi bà con nghèo khổ, chớ sợ chi
Sẽ đến với bà con những ngày tươi đẹp
Nếu hiện tại và quá khứ phụ bà con
Tương lai sẽ thuộc về bà con đời đời kiếp kiếp
Tôi kính yêu quỳ dưới mái tranh này
Có bếp lửa thiêng liêng mà khiêm tốn
Hãy ban cho tôi mọi sự tốt lành
Hỡi những bà con nghèo mà tôi thờ kính

Föl tudnám én is öltöztetni
Szép rím- s mértékbe versemet,
Amint illő meglátogatni
A társasági termeket.

De eszméim nem henye ifjak,
Kik élnek, hogy mulassanak,
Hogy felfürtözve, kesztyűs kézzel
Látogatóba járjanak.

Nem cseng a kard, nem dörg az ágyú,
A rozsda-álom lepte meg;
De tart a harc… a kard s az ágyú
Helyett most eszmék küzdenek.

Ott állok én is a csatában
Katonáid közt, századom!
Csatázok verseimmel… egy-egy
Harcos legény minden dalom.

Rongyos legények, de vitézek,
Mind bátran harcol, bátran vág,
S a katonának bátorsága
Teszi diszét, nem a ruhák.

S nem kérdem én, hogy költeményim
Túlélnek-e majd engemet?
Ha el kell esniök talán e
Csatában: ám hadd essenek.

Még akkor is szent lesz a könyv, hol
Meghalt eszméim nyugszanak,
Mert hősök temtője az, kik
A szabadságért haltanak.

Dịch

Tôi có thể tô điểm cho thơ tôi
Nhiều giọng hiền lành, nhiều vần êm ái
Rất thích hợp với những phòng khách sang
Khi giao du với các ngài quý phái
Nhưng ý nghĩ tôi không thể chây lười
Như những chàng trai trẻ ham chơi
Những kẻ vô nghề chăm ăn mặc
Những gã ma-cà-bông, tay đi găng đẹp
Là gươm không hồn, là ca-nông câm tiếng
Họ đắm mình trong một giấc ngủ của rỉ hoen
Cuộc chiến đấu còn kéo dài… bao tư tưởng
Giữa trận tiền, đã thay họ xông lên
Hỡi thời đại của tôi, tôi đang tham chiến
Cùng với bao nhiêu bộ đội của người
Bằng những vần thơ tôi chiến đấu
Những vần thơ, những người lính trẻ tươi
Những người lính anh hùng tuy áo rách
Những con người đánh địch khoẻ và hăng
Cái gì làm vẻ vang người chiến sĩ?
Binh phục ư? Không! Lòng quả cảm quên mình
Đối với tôi, tôi không cần biết rõ
Rằng thơ tôi có sống sót hay không
Trong chiến đấu, nếu chúng cần ngã xuống
Thì được thôi, chúng hãy tử vong
Sách thơ ta ơi, ngươi sẽ bao vinh dự
Làm nơi ngủ yên những ý nghĩ đã chết của ta
Vì lúc ấy ngươi sẽ là nghĩa địa
Của những anh hùng chết để được tự do

Még kér a nép, most adjatok neki!
Vagy nem tudjátok, mily szörnyű a nép,
Ha fölkel és nem kér, de vesz, ragad?
Nem hallottátok Dózsa György hirét?
Izzó vastrónon őt elégetétek,
De szellemét a tűz nem égeté meg,
Mert az maga tűz; ugy vigyázzatok:
Ismét pusztíthat e láng rajtatok!

S a nép hajdan csak eledelt kivánt,
Mivelhogy akkor még állat vala;
De az állatból végre ember lett,
S emberhez illik, hogy legyen joga.
Jogot tehát, emberjogot a népnek!
Mert jogtalanság a legrútabb bélyeg
Isten teremtményén, s ki rásüti:
isten kezét el nem kerűlheti.

S miért vagytok ti kiváltságosok?
Miért a jog csupán tinálatok?
Apáitok megszerzék a hazát,
De rája a nép-izzadás csorog.
Mit ér, csak ekkép szólni: itt a bánya!
Kéz is kell még, mely a földet kihányja,
Amíg föltűnik az arany ere…
S e kéznek nincsen semmi érdeme?

S ti, kik valljátok olyan gőgösen:
Mienk a haza és mienk a jog!
Hazátokkal mit tennétek vajon,
Ha az ellenség ütne rajtatok?…
De ezt kérdeznem! engedelmet kérek,
Majd elfeledtem győri vitézségtek.
Mikor emeltek már emlékszobort
A sok hős lábnak, mely ott úgy futott?

Jogot a népnek, az emberiség
Nagy szent nevében, adjatok jogot,
S a hon nevében egyszersmind, amely
Eldől, ha nem nyer új védoszlopot.
Az alkotmány rózsája a tiétek,
Tövíseit a nép közé vetétek;
Ide a rózsa néhány levelét
S vegyétek vissza a tövis felét!

Még kér a nép, most adjatok neki;
Vagy nem tudjátok: mily szörnyű a nép,
ha fölkel és nem kér, de vesz, ragad?
Nem hallottátok Dózsa György hirét?
Izzó vastrónon őt elégetétek,
De szellemét a tűz nem égeté meg,
Mert az maga tűz… ugy vigyázzatok:
Ismét pusztíthat e láng rajtatok!

Dịch

Hãy gấp rút trao cho dân những gì dân đòi hỏi
Các ngài không biết ư: dân mà vùng lên sẽ thành niềm kinh hãi
Khi dân không đòi, mà giật lấy, chẳng buông ra
Có thật các ngài chưa nghe tên của Gioóc Đô-xa
Các ngài bắt Đô-xa ngồi trên sắt nung thiêu chết
Nhưng tâm hồn Đô-xa lửa nào thiêu huỷ được
Vì tâm hồn Người rừng rực cháy luôn
Hãy coi chừng, ngọn lửa Người còn gieo lắm tai ương
Trước kia, dân chỉ đòi thức ăn để sống
Vì như loài thú thôi, dân đã sống bấy nay
Từ kiếp thú, giờ dân thành người thật
Và cho người đó, quyền lợi phải trao tay
Quyền lợi! Phải trao quyền lợi làm người cho quần chúng
Thiếu quyền lợi là một tổn thương rất lớn
Đối với danh dự những con người Thượng đế sinh ra
Kẻ nào không trao, Thượng đế sẽ không tha
Tại sao các ngài hưởng đủ điều ân huệ
Tại sao quyền lợi kia chỉ có nghĩa với các ngài?
Cha ông các ngài chiếm đất đai Tổ quốc
Nhưng chính mồ hôi của dân đã chảy dài trên đất
Có nghĩa gì đâu khi mồm có thể nói: mỏ đây!
Mà phải có những bàn tay moi lấy đất này
Cho tới lúc những vỉa vàng xuất hiện
Không giá trị gì ư? Những bàn tay lao động?
Và các ngài, các ngài đã từng tuyên bố huênh hoang
“Tổ quốc này, quyền lợi này là của chúng ta”
Các ngài sẽ làm gì, chỉ các ngài thôi, khi địch đến
Tấn công các ngài, Tổ quốc các ngài?
Xin lỗi vậy, tôi nêu lên câu hỏi
Phần nào tôi đã quên những chiến công anh dũng của các ngài ở Đ-ơ
Các ngài có định dựng một kỳ đài vòi vọi
Dưới chân những anh hùng hôm ấy xéo nhanh chân?
Nhân danh vinh quang của toàn nhân loại
Quyền lợi kia, các ngài hãy trao trả nhân dân
Nhân danh cả Tổ quốc có thể bị nguy vong
Nếu thiếu nhân dân, rường cột mới của bức thành chống địch
Những hoa hồng của Hiến pháp kia, các ngài giành chiếm hết
Chỉ để cho dân toàn những cành gai
Hãy gieo quanh các ngài những cánh hồng tươi đẹp
Và hãy nhận phần mình, phần những cành gai
Hãy gấp rút trao cho dân những gì dân đòi hỏi
Các ngài không biết ư: dân mà vùng lên sẽ thành niềm kinh hãi
Khi dân không đòi, mà giật lấy, chẳng buông ra
Có thật các ngài chưa nghe tên của Gioóc Đô-xa
Các ngài bắt Đô-xa ngồi trên sắt nung thiêu chết
Nhưng tâm hồn Đô-xa lửa nào thiêu huỷ được
Vì tâm hồn Người rừng rực cháy luôn
Hãy coi chừng, ngọn lửa Người còn gieo lắm tai ương

A történeteket lapozám s végére jutottam,
És mi az emberiség története? vérfolyam, amely
Ködbevesző szikláibul a hajdannak ered ki,
És egyhosszában szakadatlan foly le korunkig.
Azt ne higyétek, hogy megszűnt már. Nincs pihenése
A megeredt árnak, nincsen, csak a tenger ölében.
Vértengerbe szakad majd a vér hosszu folyója.
Rettenetes napokat látok közeledni, minőket
Eddig nem látott a világ; s a mostani béke
Ez csak ama sírcsend, amely villámnak utána
A földrendítő mennydörgést szokta előzni.
Látom fátyolodat, te sötét mélytitku jövendő,
És, meggyujtván a sejtés tündéri tüzét, e
Fátyolon átlátok, s attól, ami ott van alatta,
Borzadok, iszonyodom, s egyszersmind kedvre derűlök
És örülök szilajan. A háború istene újra
Fölveszi páncélját s kardját markába szorítván
Lóra ül és végigszáguld a messze világon,
És a népeket, eldöntő viadalra, kihíja.
Két nemzet lesz a föld ekkor, s ez szembe fog állni:
A jók s a gonoszak. Mely eddig veszte örökké,
Győzni fog itt a jó. De legelső nagy diadalma
Vértengerbe kerűl. Mindegy. Ez lesz az itélet,
Melyet igért isten, próféták ajkai által.
Ez lesz az ítélet, s ez után kezdődik az élet,
Az örök üdvesség; s érette a mennybe röpűlnünk
Nem lesz szükség, mert a menny fog a földre leszállni.

Dịch

Tôi đã giở từng trang lịch sử và đọc đến những dòng chữ cuối cùng
Ôi, lịch sử chúng ta chỉ là một dòng sông máu
Đã bắt nguồn giữa những hòn đá nguyên thuỷ thuở hỗn mang
Và cuồn cuộn, triền miên trôi đến tận bây giờ
Bạn đừng tưởng nay có thể ngăn dòng sông lại được
Ngăn nước dòng sông chỉ có đại dương
Một sông máu chỉ có thể hoà tan vào biển máu
Và tôi thấy những ngày khủng khiếp đến gần
Khủng khiếp loài người chưa từng thấy – Hoà bình hiện nay
Giống như sự im lặng nặng nề của chết chóc
Sau chớp giật, người ta chờ sét nổ tung trời đất
Tương lai ơi, áo khoác của người giấu che bao bí ẩn
Nhưng linh tính tôi kỳ diệu đã chọc thủng được rồi
Tôi thấy cả ngày mai ẩn náu bên sau
Thoạt làm tôi sợ hãi lo âu
Nhưng sau đó làm tim tôi run lên vì sung sướng
Thần chiến tranh lại khoác áo bào, và nắm chặt chuôi gươm
Nhảy lên ngựa, phi đến tận cùng quả đất
Thần kêu gọi các dân tộc hãy giao tranh định đoạt
Và quả đất giờ đây chỉ còn đối mặt: hai phe
Người hiền và kẻ ác. Những người hiền hay thua trận trước kia
Sẽ chiến thắng – Mặc kệ cho trận đấu này chiến thắng
Có gây thành biển máu mênh mông vì đây sẽ là lời tuyên án
Mà Thượng đế đã hẹn với ta qua miệng những kẻ tiên tri
Ngày xử án sẽ thấy một sự bắt đầu xuất hiện
Hạnh phúc muôn đời, không phải tìm tận đâu xa
Tận trời cao, vì trời cao sẽ xuống dưới chân ta

Tu ne veux pas aimer, méchante ?
Le printemps en est triste, vois ;
Entends-tu ce que l’oiseau chante
Dans la sombre douceur des bois ?
Sans l’amour rien ne reste d’Ève ;
L’amour, c’est la seule beauté ;
Le ciel, bleu quand l’astre s’y lève,
Est tout noir, le soleil ôté.
Tu deviendras laide toi-même
Si tu n’as pas plus de raison.
L’oiseau chante qu’il faut qu’on aime,
Et ne sait pas d’autre chanson.

Dịch

Em không muốn yêu ư, em độc ác?
Mùa xuân đang buồn vì chuyện ấy, em xem!
Em có nghe điều con chim đang hót
Trong sự lắng im buồn bã các khu rừng?
Không tình yêu, không có gì của Evơ còn lại nữa
Tình yêu là sắc đẹp duy nhất trên đời
Không trung xanh khi vầng dương mọc dậy
Và thẫm đen khi cất mất mặt trời
Em sẽ tự mình làm xấu đi
Nếu không biết chọn đường cư xử
Con chim hót nhắc mọi người hãy yêu
Và không biết hót điệu gì khác nữa…

Trên đây, chúng tôi đã dành tặng quý độc giả yêu quý những thi trang thơ dịch hay và nổi danh nhất của nhà thơ Phạm Hổ. Hãy chia sẻ cho bạn bè và người thân yêu của mình để cùng nhau cảm nhận những vần thơ đặc sắc và ý nghĩa của ông nhé! Cảm ơn các bạn đã theo dõi bài viết này của chúng tôi!

Xem Thêm: Tuyển chọn những bài thơ dịch Phạm Hổ hay nhất mọi thời đại phần 2

Related posts

Nhà thơ Thái Bá Tân và tuyển tập thơ dịch Muhammad Rumi phần đầu

admin

Nhà thơ Thái Bá Tân và tuyển tập thơ dịch Eduardas Mieželaitis phần cuối

admin

Nhà thơ Nguyễn Thiếp cùng những trang thơ ấn tượng được yêu thích nhất

admin

Leave a Comment