Nhà Thơ Nổi Tiếng

Victor Hugo – Với tập thơ Truyền thuyết những thế kỷ La légende des siècles (1859)

Tập thơ Truyền thuyết những thế kỷ La légende des siècles , là một trong những tập thơ tiểu biểu của nhà thơ, nhà văn Victor Hugo. Tập thơ gồm 14 bài thơ được sáng tác năm 1859. Mời quý bạn đọc giả cùng cảm nhận và thương thức.

Nội Dung

Cây đèn biển Le phare

Le phare
Les nuages erraient dans les souffles des airs,
Et la cinquième voix monta du bord des mers:
— Sostrate Gnidien regardait les étoiles.
De la tente des cieux dorant les larges toiles,
Elles resplendissaient dans le nocturne azur;
Leur rayonnement calme emplissait l’éther pur
Où le soir le grand char du soleil roule et sombre;
Elles croisaient, au fond des clairs plafonds de l’ombre
Où le jour met sa pourpre et la nuit ses airains,
Leurs chœurs harmonieux et leurs groupes sereins;
Le sinistre océan grondait au-dessous d’elles;
L’onde à coups de nageoire et les vents à coups d’ailes
Luttaient, et l’âpre houle et le rude aquilon
S’attaquaient dans un blême et fauve tourbillon;
Éole fou prenait aux cheveux Neptune ivre;
Et c’était la pitié du songeur que de suivre
Les pauvres nautoniers de son œil soucieux;
Partout piége et naufrage ; il tombait de ces cieux
Sur l’esquif et la barque et les fortes trirèmes
Une foule d’instants terribles ou suprêmes;
Et pas une clarté pour dire : Ici le port!
Le gouffre, redoublant de tourmente et d’effort,
Vomissait sur les nefs, d’horreur exténuées,
Toute son épouvante et toutes ses nuées;
Et les brusques écueils surgissaient; et comment
S’enfuir dans ce farouche et noir déchirement?
Et les marins perdus se courbaient sous l’orage;
La mort leur laissait voir, comme un dernier mirage,
La terre s’éclipsant derrière les agrès,
Les maisons, les foyers pleins de tant de regrets,
Des fantômes d’enfants à genoux, et des rêves
De femmes se tordant les bras le long des grèves;
On entendait crier de lamentables voix:
— Adieu, terre ! patrie, adieu ! collines, bois,
Village où je suis né, vallée où nous vécûmes!… —
Et tout s’engloutissait dans de vastes écumes,
Tout mourait; puis le calme, ainsi que le jour naît,
Presque coupable et presque infâme, revenait;
Le ciel, l’onde, achevaient en concert leur mêlée;
L’hydre verte laissait luire l’hydre étoilée;
L’océan se mettait, plein de morts, teint de sang,
À gazouiller ainsi qu’un enfant innocent;
Cependant l’algue allait et venait dans les chambres
Des navires roulant au fond de l’eau leurs membres;
Les bâtiments noyés rampaient au plus profond
Des flots qui savent seuls dans l’ombre ce qu’ils font.
Tristes esquifs partis, croyant aux providences !
Et les sphères menaient dans le ciel bleu leurs danses;
Et, n’ayant pu montrer ni le port ni l’écueil,
Ni préserver la nef de devenir cercueil,
Les constellations, jetant leur lueur pâle
Jusqu’au lit ténébreux de la grande eau fatale,
Et sous l’onde, et parmi les effrayants roseaux,
Dessinant la figure obscure des vaisseaux,
Poupes et mâts, débris des sapins et des ormes,
Éclairaient vaguement ces squelettes difformes,
Et faisaient sous l’écume, au fond du gouffre amer,
Rire aux dépens des dieux les monstres de la mer.
Les morts flottaient sous l’eau qui jamais ne s’arrête,
Et par moments, levant hors de l’onde la tête,
Ils semblaient adresser, dans leurs vagues réveils,
Une question sombre et terrible aux soleils.
C’est alors que, des flots dorant les sombres cimes,
Voulant sauver l’honneur des Jupiters sublimes,
Voulant montrer l’asile aux matelots, rêvant
Dans son Alexandrie, à l’épreuve du vent,
La haute majesté d’un phare inébranlable
À la solidité des montagnes semblable,
Présent jusqu’à la fin des siècles sur la mer,
Avec du jaspe, avec du marbre, avec du fer,
Avec les durs granits taillés en tétraèdres,
Avec le roc des monts, avec le bois des cèdres,
Et le feu qu’un titan a presque osé créer,
Sostrate Gnidien me fit, pour suppléer,
Sur les eaux, dans les nuits fécondes en désastres,
À l’inutilité magnifique des astres.

Mây từng mảng lang thang trong gió
Và tiếng thứ năm cất lên từ bờ sóng biển khơi:
– Sostrate Gnidien nhìn những vì tinh tú
Rắc vàng lên nền vải rộng của lều trời
Lấp lánh giữa vòm đêm xanh thẳm
Ánh sáng bình yên chan chứa thinh không
Nơi chiều tà, xe trời lăn chìm trong vắng lặng
Và đáy trần sáng tươi của bóng tối mịt mùng
Nơi ngày trải hồng và đêm nhuộm mực
Sao hoà đồng ca và thanh thản bước long lanh
Ngay phía dưới biển gầm lên tang tóc
Sóng quẫy đuôi cùng cánh gió tranh giành
Và biển giận với cuồng phong đánh vật
Trong một hung hăng xoáy lốc lộn trời
Thần gió điên nắm tóc thuỷ thần say khướt
Và Sostrate đau lòng nhìn về phía mù khơi
Mắt tư lự dõi theo những tàu thuyền bất hạnh
Tai ương và cạm bẫy bủa vây
Trời đổ xuống những phút giây định mệnh
Mọi loại thuyền cùng chung số phận đoạ đày
Và không một ánh sáng ngỏ lời:”Đây là bến cảng”
Vực thẳm càng tăng sức mạnh bạo tàn
Trút lên những con thuyền kiệt hơi vì khiếp đảm
Tất cả lượng hãi hùng và sóng nước hỗn mang
Và đá ngầm đột ngột mọc lên tua tủa
Biển giận như thiên la địa võng đen ngòm
Những thuỷ thủ còng lưng trong bão tố
Trước phút lâm chung như bỗng thấy bềnh bồng
Đất liền biến mất sau buồm chão
Những ngôi nhà, những bếp hồng ky niệm xa xưa
Những bóng ma trẻ thơ quỳ ảo não
Và những giấc mơ quả phụ khóc trên bờ
Và nghe thấy những tiếng kêu thảm thiết
Vĩnh biệt đất quê hương! Vĩnh biệt rừng đồi!
Ôi! Thôn xóm nơi ta sinh, ôi thung lũng tháng ngày quen biết
Và tất cả chìm trong sóng gió bời bời
Tất cả chết. Rồi bình yên gần như đê tiện
Và tội đồ trở lại với bình minh
Trời nước bắt tay nhau đình chiến
Biển xanh soi trời xanh sao sáng long lanh
Đại dương nhuộm máu tanh và đầy xác chết
Như một đứa trẻ thơ lại tiếp tục rì rào
Giữa lúc rong rêu đi lại không biết mệt
Trong phòng những con tàu lăn lộn đáy sâu
Những xác tàu lết đi lòng vực thẳm
Chỉ có sóng biết chúng đang làm gì trong bóng tối mênh mông
Ôi! Những con tàu đáng thương ra đi lòng đầy tin tưởng
Ở Cao Xanh! Và những tinh cầu nhảy múa trên không
Và không biết chỉ rõ đá ngầm và bến cảng
Cũng như ngăn không cho tàu biển hoá quan tài
Những chòm sao tuôn nhạt nhoà ánh sáng
Đến tận thâm u lòng biển giết người
Chập chờn giữa hãi hùng lau lách
Hình lờ mờ của những xác tàu xưa
Buồm và lái, ván gỗ du, gỗ bách
Như những bộ xương kỳ khôi đủ mọi hình thù
Và khiến những quái vật dưới tầng sâu vực sóng
Cười vang lên giễu cợt những thiên thần
Xác người chết bập bềnh trong biển động
Và lúc lại nhô đầu lên mặt nước ngỡ ngàng
Như đề ra với mặt trời một câu hỏi đau thương và khủng khiếp
Giữa lúc ấy trên đỉnh đầu sóng tối rọi ngời
Muốn cứu vãn danh dự những Jupiter trác tuyệt
Và chỉ rõ nơi trú chân cho những đoàn thuỷ thủ chơi vơi
Mỏm Alexandrie bỗng đường bệ cây đèn pha sừng sững
Đầu trần trong cơn gió lốc đứng trầm ngâm
Kiên cố tựa tầng tầng núi dựng
Trơ gan đến tận cùng thế kỷ trước Đại dương
Với vân thạch, đá hoa cùng sắt thép
Với những khối cương đẽo bốn mặt rắn đanh
Với đá núi, với gỗ rừng tứ thiết
Và ngọn lửa do một người khổng lồ đánh liều ăn cắp của Trời xanh
Sostrate sinh ra tôi, để những lúc biển đêm giàu thảm hoạ
Bù vào sự vô ích tuyệt vời của những vì sao

L’échafaud
C’était fini. Splendide, étincelant, superbe,
Luisant sur la cité comme la faulx sur l’herbe,
Large acier dont le jour faisait une clarté,
Ayant je ne sais quoi dans sa tranquillité
De l’éblouissement du triangle mystique,
Pareil à la lueur au fond d’un temple antique,
Le fatal couperet relevé triomphait.
Il n’avait rien gardé de ce qu’il avait fait
Qu’une petite tache imperceptible et rouge.

Le bourreau s’en était retourné dans son bouge;
Et la peine de mort, remmenant ses valets,
Juges, prêtres, était rentrée en son palais,
Avec son tombereau terrible dont la roue,
Silencieuse, laisse un sillon dans la boue
Qui se remplit de sang sitôt qu’elle a passé.
La foule disait : bien ! car l’homme est insensé,
Et ceux qui suivent tout, et dont c’est la manière,
Suivent même ce char et même cette ornière.

J’étais là. Je pensais. Le couchant empourprait
Le grave Hôtel de Ville aux luttes toujours prêt,
Entre Hier qu’il médite et Demain dont il rêve.
L’échafaud achevait, resté seul sur la Grève,
Sa journée, en voyant expirer le soleil.
Le crépuscule vint, aux fantômes pareil.
Et j’étais toujours là, je regardais la hache,
La nuit, la ville immense et la petite tache.

A mesure qu’au fond du firmament obscur
L’obscurité croissait comme un effrayant mur,
L’échafaud, bloc hideux de charpentes funèbres,
S’emplissait de noirceur et devenait ténèbres;
Les horloges sonnaient, non l’heure, mais le glas;
Et toujours, sur l’acier, quoique le coutelas
Ne fût plus qu’une forme épouvantable et sombre,
La rougeur de la tache apparaissait dans l’ombre.

Un astre, le premier qu’on aperçoit le soir,
Pendant que je songeais, montait dans le ciel noir.

Sa lumière rendait l’échafaud plus difforme.
L’astre se répétait dans le triangle énorme;
Il y jetait ainsi qu’en un lac son reflet,
Lueur mystérieuse et sacrée ; il semblait
Que sur la hache horrible, aux meurtres coutumière,
L’astre laissait tomber sa larme de lumière.
Son rayon, comme un dard qui heurte et rebondit,
Frappait le fer d’un choc lumineux ; on eût dit
Qu’on voyait rejaillir l’étoile de la hache.
Comme un charbon tombant qui d’un feu se détache;
Il se répercutait dans ce miroir d’effroi;
Sur la justice humaine et sur l’humaine loi
De l’éternité calme auguste éclaboussure.
” Est-ce au ciel que ce fer a fait une blessure?
Pensai-je. Sur qui donc frappe l’homme hagard?
Quel est donc ton mystère, ô glaive? ” Et mon regard
Errait, ne voyant plus rien qu’à travers un voile,
De la goutte de sang à la goutte d’étoile.

Hạ màn.Lộng lẫy, hiên ngang, chói lọi
Lấp lánh trên đô thành như chiếc hái giữa cỏ non
Lưỡi thép rộng trong ánh ngày sáng tỏ
Dưới vẻ bình yên có cái gì rực rỡ
Của long lanh hình tam giác ảo huyền
Như ngọn lửa hậu toà một cổ miếu linh thiêng
Lưỡi thép hành hình đã được kéo lên trong thắng lợi
Chỉ giữ lại của việc làm đen tối
Một vết li ti màu đỏ lờ mờ

Kẻ đao phủ đã trở về căn lều nhỏ xác xơ
Và án tử hình thu thập những tên tôi tớ
Giáo sĩ, quan toà đã trở về nơi pháp đình đồ sộ
Với chiếc xe khủng khiếp đi kèm
Bánh lầm lì lăn trên lớp bùn đen
Để lại một rãnh dài ăm ắp máu
Đám đông hoan hô… Con người vốn điên cuồng thô bạo
Và thói thường hay tụ bạ theo đuôi
Kể cả vết lăn chiếc xe chuyên trị giết người

Tôi đứng đó trầm ngâm. Trời tà nhuộm đỏ
Toà thị chính trang nghiêm nơi đấu tranh sẵn sàng bùng nổ
Giữa Hôm qua suy tư và Ngày mai đầy những ước mong
Máy chém sau một ngày phục vụ pháp trường
Đứng trơ trọi nhìn mặt trời tắt thở
Hoàng hôn về như những bóng ma nặng nợ
Tôi vẫn còn đứng đó, tôi nhìn
Đêm, vết máu nhỏ trên lưỡi dao và thành phố mông mênh

Trong lúc cuối chân trời mờ mịt
Bóng tối đùn lên như một bức tường khủng khiếp
Chiếc máy chém, khối rầm gỗ hủi sù sì
Chất đầy màu đen như một dụng cụ của Âm ty
Đồng hồ không điểm giờ mà điểm chuông báo tử
Và trên mặt thép, dù lưỡi dao đao phủ
Chỉ còn là một hình thù ghê rợn tối đen
Vệt máu người vẫn lồ lộ trong đêm

Một vì sao đầu tiên hẹn hò chiều lấp lánh
Trong lúc tôi trầm ngâm, mọc trên nền trời lạnh

Chiếc máy giết người càng thêm quái gở kỳ khu
Ngôi sao in long lanh trên hình tam giác kếch sù
Như thường vẫn soi gương trên mặt hồ trong vắt
Ôi! Ánh sáng thiêng và bí mật
Chừng như trên lưỡi dao uống máu không tanh
Sao để rơi một giọt lệ long lanh
Tia sáng như một mũi tên lửa biếc
Nảy lên khi chạm vào mặt thép
Ta tưởng như ngôi sao từ lưỡi thép bắn lên trời
Như hòn than từ ngọn lửa tách rời
Sao vọng dội trong tấm gương khủng khiếp
Mảnh đường bệ uy nghiêm của Vĩnh hằng tịch mịch
Trên sự công bằng và luật pháp trần gian
Lưỡi dao kia có chém phai trời xanh
Con người điên dại đã chặt đầu ai đó?
Điều bí mật của người là gì, ôi lưỡi gươm xét xử?
Và mắt tôi nhìn, như sau tấm màn bao
Từ giọt máu đào lên đến giọt sao

Choix entre deux passants
Je vis la Mort, je vis la Honte ; toutes deux
Marchaient au crépuscule au fond du bois hideux.

L’herbe informe était brune et d’un souffle agitée.

Et sur un cheval mort la Mort était montée;
La Honte cheminait sur un cheval pourri.

Des vagues oiseaux noirs on entendait le cri.

Et la Honte me dit: — Je m’appelle la Joie.
Je vais au bonheur. Viens. L’or, la pourpre, la soie,
Les festins, les palais, les prêtres, les bouffons,
Le rire triomphal sous les vastes plafonds,
Les richesses en hâte ouvrant leurs sacs de piastres,
Les parcs, éden nocturne aux grands arbres pleins d’astres,
Les femmes accourant avec une aube aux fronts,
La fanfare, à sa bouche appuyant les clairons,
Fière, et faisant sonner la gloire dans le cuivre,
Tout cela t’appartient; viens, tu n’as qu’à me suivre.

Et je lui répondis: — Ton cheval sent mauvais.

La Mort me dit: — Mon nom est Devoir ; et je vais
Au sépulcre, à travers l’angoisse et le prodige.

— As-tu derrière toi de la place? lui dis-je.

Et depuis lors, tournés vers l’ombre où Dieu paraît,
Nous faisons route ensemble au fond de la forêt.

Tôi thấy Cái chết, tôi thấy sự Bỉ ổi, cả hai
Đi trong hoàng hôn một đáy rừng ghe lở

Cỏ úa vàng nham nhở lay trong gió

Cái chết ngồi trên một con ngựa chết ra roi
Và Bỉ ổi cưỡi con ngựa ô thối rữa đã có dòi

Bóng hắc điểu chập chờn kêu quang quác

Và Bỉ ổi bảo tôi:- “Ta là Hoan lạc
Hãy đi với ta về hạnh phúc, gấm lụa, vàng son
Yến tiệc lâu đài, lũ hề, giáo sĩ, hầu non
Tiếng cười đắc thắng rung trần rộng
Của cải hối hả mở túi tiền chất đống
Những vườn Thiên đường cây lấp lánh sao trăng
Phụ nữ quây tròn bình minh ngời vầng trán hoa đăng
Nhạc đội say sưa miệng kèn sáng loáng
Vinh quang trong tiếng đồng cất lên sang sảng
Tất cả thuộc về người, chỉ cần người tháp tùng ta

Tôi trả lời: Ngựa của ngươi có mùi khó ngửi

Cái chết bảo tôi: – Tên ta là Nhiệm vụ. Ta đi xa
Về phía nấm mồ giữa lo sợ lẫn kỳ công chói lọi

– Sau yên ngựa còn chỗ không? – Tôi hỏi

Và từ đó hướng về phía u huyền nơi Thượng đế hiện lên
Đáy rừng sâu, tôi hành trình với cái chết kề bên

Homo duplex
Un jour, le duc Berthold, neveu du comte Hugo,
Marquis du Rhin, seigneur de Fribourg en Brisgau,
Traversait en chassant la forêt de Thuringe.
Il vit sous un grand arbre un ange auprès d’un singe.
Ces deux êtres, pareils à deux lutteurs grondants,
Se regardaient l’un l’autre avec des yeux ardents;
Le singe ouvrait sa griffe et l’ange ouvrait son aile.
Et l’ange dit: — Berthold de Zœhringen, qu’appelle
Dans la verte forêt le bruit joyeux des cors,
Tu vois ici ton âme à côté de ton corps.
Écoute: moi je suis ton esprit, lui ta bête.
Chacun de tes péchés lui fait lever la tête;
Chaque bonne action que tu fais me grandit.
Tant que tu vis, je lutte et j’étreins ce bandit;
À ta mort tout finit dans l’ombre ou dans l’aurore.
Car c’est moi qui t’enlève ou lui qui te dévore.

Một hôm, quận công Berthold, cháu bá tước Hugo
Hầu tước sông Rhin, lãnh chúa vùng Fribourg ở Brisgau
Qua vùng rừng Thuringe săn thú
Thấy một con khỉ, một Thiên Thần dưới tán cây cổ thụ
Như hai đấu sĩ hằm hè
Nhìn nhau bằng con mắt lửa tròn xoe
Bên giương vuốt, bên xoè to đôi cánh
Và thiên thần nói: Berthold xứ Zœhringen, tiếng tù và lanh lảnh
Đương gọi ngươi rộ rã phía rừng sâu
Ngươi thấy linh hồn và thể xác đứng đối đầu
Ta là tinh thần của ngươi và nó là con thú
Mỗi lỗi lầm của ngươi xui nó thêm hung dữ
Mỗi điều tốt ngươi làm thêm sức mạnh cho ta
Lúc ngươi sống, ta vật lộn ôm ghì con vật xấu xa
Khi ngươi chết, tất cả tận cùng trong bình minh hay trong đêm mù mịt
Vì hoặc ta nâng ngươi lên hoặc ngươi bị con thú rừng ăn thịt

La conscience
Lorsque avec ses enfants vêtus de peaux de bêtes,
Échevelé, livide au milieu des tempêtes,
Caïn se fut enfui de devant Jéhovah,
Comme le soir tombait, l’homme sombre arriva
Au bas d’une montagne en une grande plaine;
Sa femme fatiguée et ses fils hors d’haleine
Lui dirent: «Couchons-nous sur la terre, et dormons.»
Caïn, ne dormant pas, songeait au pied des monts.
Ayant levé la tête, au fond des cieux funèbres,
Il vit un œil, tout grand ouvert dans les ténèbres,
Et qui le regardait dans l’ombre fixement.
«Je suis trop près,» dit-il avec un tremblement.
Il réveilla ses fils dormant, sa femme lasse,
Et se remit à fuir sinistre dans l’espace.
Il marcha trente jours, il marcha trente nuits.
Il allait, muet, pâle et frémissant aux bruits,
Furtif, sans regarder derrière lui, sans trêve,
Sans repos, sans sommeil; il atteignit la grève
Des mers dans le pays qui fut depuis Assur.
«Arrêtons-nous, dit-il, car cet asile est sûr.
Restons-y. Nous avons du monde atteint les bornes.»
Et, comme il s’asseyait, il vit dans les cieux mornes
L’œil à la même place au fond de l’horizon.
Alors il tressaillit en proie au noir frisson.
«Cachez-moi!» cria-t-il; et, le doigt sur la bouche,
Tous ses fils regardaient trembler l’aïeul farouche.
Caïn dit à Jabel, père de ceux qui vont
Sous des tentes de poil dans le désert profond:
«Étends de ce côté la toile de la tente.»
Et l’on développa la muraille flottante;
Et, quand on l’eut fixée avec des poids de plomb,
«Vous ne voyez plus rien?» dit Tsilla, l’enfant blond,
La fille de ses fils, douce comme l’aurore;
Et Caïn répondit: «Je vois cet œil encore!»
Jubal, père de ceux qui passent dans les bourgs
Soufflant dans des clairons et frappant des tambours,
Cria: «Je saurai bien construire une barrière.»
Il fit un mur de bronze et mit Caïn derrière.
Et Caïn dit: «Cet œil me regarde toujours!»
Hénoch dit: «Il faut faire une enceinte de tours
Si terrible, que rien ne puisse approcher d’elle.
Bâtissons une ville avec sa citadelle,
Bâtissons une ville, et nous la fermerons.»
Alors Tubalcaïn, père des forgerons,
Construisit une ville énorme et surhumaine.
Pendant qu’il travaillait, ses frères, dans la plaine,
Chassaient les fils d’Énos et les enfants de Seth;
Et l’on crevait les yeux à quiconque passait;
Et, le soir, on lançait des flèches aux étoiles.
Le granit remplaça la tente aux murs de toiles,
On lia chaque bloc avec des nœuds de fer,
Et la ville semblait une ville d’enfer;
L’ombre des tours faisait la nuit dans les campagnes;
Ils donnèrent aux murs l’épaisseur des montagnes;
Sur la porte on grava: «Défense à Dieu d’entrer.»
Quand ils eurent fini de clore et de murer,
On mit l’aïeul au centre en une tour de pierre;
Et lui restait lugubre et hagard. « Ô mon père!
L’œil a-t-il disparu?» dit en tremblant Tsilla.
Et Caïn répondit: « Non, il est toujours là.»
Alors il dit: «Je veux habiter sous la terre
Comme dans son sépulcre un homme solitaire;
Rien ne me verra plus, je ne verrai plus rien.»

On fit donc une fosse, et Caïn dit: «C’est bien!»
Puis il descendit seul sous cette voûte sombre;
Quand il se fut assis sur sa chaise dans l’ombre
Et qu’on eut sur son front fermé le souterrain,
L’œil était dans la tombe et regardait Caïn.

Khi cùng đàn cháu con mình khoác da thú vật
Tóc tả tơi, người tái mét giữa phong ba
Cain lánh Jehova tìm đường tẩu thoát
Lùi lũi đi vào lúc chiều tà
Đến một đồng bằng dưới chân quả núi
Vợ con như không còn cất nổi chân đi
Nói: “Ta hãy ngủ tạm một đêm trên đất bụi”
Riêng Cain nằm trằn trọc canh khuya
Ngửa mặt nhìn vòm cao ảm đạm
Thấy một con mắt mở trừng trừng
Nhìn lão chằm chằm trong đêm vắng
“Ta vẫn còn quá gần”, Cain nói giọng run run
Rồi đánh thức bầy con đang ngủ say và người vợ mệt
Tiếp tục lê bước chân tội lỗi lên đường
Cain đi ba mươi ngày, ba mươi đêm liên tiếp
Không nghỉ ngơi, im lặng, hãi hùng
Không dám nhìn sau… giật mình với từng tiếng động
Và lão đến vùng cát biển xa xôi
“Hãy dừng chân, đây là nơi yên ổn
Ta đã đến vùng Átxuya cuối đất cùng trời”
Cain ngồi xuống trên vòm cao xám ngoét
Con mắt hiện lên cùng chỗ chân mây xa
“Tìm chỗ dấu ta mau!” Cain thét
Râu tóc dựng lên… người rợn nổi da gà
Lũ con cháu ngón tay đặt lên mồm ngơ ngác
Nhìn ông tổ run run như con thú bị săn lùng
Cain bảo Jaben, bố của những người sống trên bãi cát
Du cư trong những túp lều lông:
“Hãy lấy vải da lều căng phía trước”
Và người ta dăng bức thành lưu động mênh mông
Sau khi đã lấy những quả chì ghìm chặt
Sila, đứa cháu tóc bông, hiền như một hừng đông
Hỏi Cain: “Che vậy đã kín lắm rồi, ông nhỉ?”
Và Cain trả lời: “Con mắt vẫn nhìn ông!”
Juyban, bố của những người sống trong đô thị
Chuyên nghề đánh trống thổi kèn đồng
La to: “Ta sẽ xây một bức tường cao chót vót”
Hắn dựng một vách đồng và đưa Cain ẩn kín đằng sau
Và Cain nói: “Con mắt vẫn nhìn ta không ngớt!”
Hênốc bàn: “Phải xây một hàng rào dằng dặc tháp cao
Dữ dội… không ai dám mon men ghé tới
Hãy dựng lên đô thị pháo đài
Xong ta sẽ bít quây kín lại”
Và Tuybancanh, bố của những thợ rèn bắt đầu xây
Đồ sộ một đô thành khủng khiếp
Bầy em hắn ngày ngày rong ruổi bình sa
Săn đuổi đàn con của Ênốt và của Xét
Và người ta khoét mắt kẻ nào bất hạnh đi qua
Và tối tối, bắn lên trời cao những mũi tên nhọn hoắt
Tường vải thay bằng vách đán hoa cương
Từng khối gắn với nhau bằng móc sắt
Đô thành như đô thành địa ngục kinh hoàng
Bóng những tháp cao trùm đêm xuống những xóm làng lân cận
Tường bề ngang như ruột núi ken dày
Trên cửa khắc: “Cấm Chúa trời bén mảng!”
Khi những bức tường bốn phía đã quây
Người ta giấu Cain trong một thạch lâu ở giữa
Nhưng Cain nom vẫn thất thần ngơ ngác. “Ông ơi!
Nó đã biến mất chưa?”, Sila run run hỏi nhỏ
– “Nó vẫn còn nguyên”, ông lão trả lời
Rồi Cain tiếp: “Ta muốn ở sâu dưới đất
Như một kẻ đáy mồ thui thủi sống cô đơn
Ta khuất mắt với đời, đời với ta khuất mắt!”

Người ta đào một hầm sâu và Cain có vẻ hài lòng
Một mình ông già bước tới trong vòm tối
Khi đã ngồi yên vị giữa lòng đêm
Và chiếc nắp cũng buông trên mái đầu tội lỗi
Con mắt trong mồ sâu… con mắt vẫn nhìn!

Ève
Ève offrait au ciel bleu la sainte nudité;
Ève blonde admirait l’aube, sa soeur vermeille.

Chair de la femme! argile idéale! ô merveille!
Pénétration sublime de l’esprit
Dans le limon que l’Être ineffable pétrit!
Matière où l’âme brille à travers son suaire!
Boue où l’on voit les doigts du divin statuaire!
Fange auguste appelant le baiser et le coeur,
Si sainte, qu’on ne sait, tant l’amour est vainqueur,
Tant l’âme est vers ce lit mystérieux poussée,
Si cette volupté n’est pas une pensée,
Et qu’on ne peut, à l’heure où les sens sont en feu,
Étreindre la beauté sans croire embrasser Dieu!
Ève laissait errer ses yeux sur la nature.

Et, sous les verts palmiers à la haute stature,
Autour d’Ève, au-dessus de sa tête, l’oeillet
Semblait songer, le bleu lotus se recueillait,
Le frais myosotis se souvenait; les roses
Cherchaient ses pieds avec leurs lèvres demi-closes;
Un souffle fraternel sortait du lys vermeil;
Comme si ce doux être eût été leur pareil,
Comme si de ces fleurs, ayant toutes une âme,
La plus belle s’était épanouie en femme.

Nàng Ê-va tặng trời xanh cảnh khoả thân thần thánh
Ê-va tóc vàng say bình minh như cô em hồng ánh

Da thịt mỹ nhân: Thạch cao lý tưởng! Ôi, kỳ quan!
Ôi, tinh thần tuyệt mỹ nhập thân
Nơi đất bùn mà Đấng tối cao nhào nặn!
Vật chất mà linh hồn long lanh qua khăn liệm!
Nắm bùn làm hiện ngón tay người tạc tượng tuyệt vời
Bùn tôn nghiêm thiết tha gọi trái tim và đôi môi
Vì tình yêu luôn là kẻ thắng
Vì linh hồn luôn hướng tới tình yêu,
chiếc giường bí huyền màu trắng
Vì tình yêu muôn thuở thiêng liêng
Ta chẳng biết khoái lạc có là tư duy dịu êm?
Phải chăng khi cảm giác đang bừng lửa
Ai đây ôm mỹ nhân không ngỡ là hôn Chúa?
Ê-va lơ đãng nhìn cảnh thiên nhiên

Và dưới bóng dừa cao vút
Quang Ê-va, trên đầu nàng, cẩm chướng như ngây ngất
Hoa lưu ly nhơ lại phút êm đềm
Hoa hồng chạm chân nàng với tràng hoa hé mở
Hơi thở thân thương rộn lên từ huệ đỏ
Như Ê-va dường cũng là hoa
Như trong mọi hoa chứa tâm hồn toả sáng bao la
Hoa đẹp nhất đã nở thành người đẹp: Ê-va

Les chevaliers errants
La terre a vu jadis errer des paladins;
Ils flamboyaient ainsi que des éclairs soudains,
Puis s’évanouissaient, laissant sur les visages
La crainte, et la lueur de leurs brusques passages;
Ils étaient, dans des temps d’oppression, de deuil,
De honte, où l’infamie étalait son orgueil,
Les spectres de l’honneur, du droit, de la justice;
Ils foudroyaient le crime, ils souffletaient le vice;
On voyait le vol fuir, l’imposture hésiter,
Blêmir la trahison, et se déconcerter
Toute puissance injuste, inhumaine, usurpée,
Devant ces magistrats sinistres de l’épée;
Malheur à qui faisait le mal! Un de ces bras
Sortait de l’ombre avec ce cri: -Tu périras!-
Contre le genre humain et devant la nature,
De l’équité suprême ils tentaient l’aventure;
Prêts à toute besogne, à toute heure, en tout lieu,
Farouches, ils étaient les chevaliers de Dieu.

Ils erraient dans la nuit ainsi que des lumières.

Leur seigneurie était tutrice des chaumières;
Ils étaient justes, bons, lugubres, ténébreux;
Quoique gardé par eux, quoique vengé par eux,
Le peuple en leur présence avait l’inquiétude
De la foule devant la pâle solitude;
Car on a peur de ceux qui marchent en songeant,
Pendant que l’aquilon, du haut des cieux plongeant,
Rugit, et que la pluie épand à flots son urne
Sur leur tête entrevue au fond du bois nocturne.

Ils passaient effrayants, muets, masqués de fer.

Quelques-uns ressemblaient à des larves d’enfer;
Leurs cimiers se dressaient difformes sur leurs heaumes;
On ne savait jamais d’où sortaient ces fantômes;
On disait: -Qui sont-ils? d’où viennent-ils? Ils sont
Ceux qui punissent, ceux qui jugent, ceux qui vont.-
Tragiques, ils avaient l’attitude du rêve.

O les noirs chevaucheurs! ô les marcheurs sans trêve!
Partout où reluisait l’acier de leur corset,
Partout où l’un d’eux, calme et grave, apparaissait
Posant sa lance au coin ténébreux de la salle,
Partout où surgissait leur ombre colossale,
On sentait la terreur des pays inconnus;
Celui-ci vient du Rhin; celui-là du Cydnus;
Derrière eux cheminait la Mort, squelette chauve;
Il semblait qu’aux naseaux de leur cavale fauve
On entendît la mer ou la forêt gronder;
Et c’est aux quatre vents qu’il fallait demander
Si ce passant était roi d’Albe ou de Bretagne,
S’il sortait de la plaine ou bien de la montagne,
S’il avait triomphé du maure, ou du chenil
Des peuples monstrueux qui hurlent près du Nil;
Quelle ville son bras avait prise ou sauvée;
De quel monstre il avait écrasé la couvée.

Les noms de quelques-uns jusqu’à nous sont venus;
Ils s’appelaient Bernard, Lahire, Eviradnus;
Ils avaient vu l’Afrique; ils éveillaient l’idée
D’on ne sait quelle guerre effroyable en Judée;
Rois dans l’Inde, ils étaient en Europe barons;
Et les aigles, les cris des combats, les clairons,
Les batailles, les rois, les dieux, les épopées,
Tourbillonnaient dans l’ombre au vent de leurs épées;
Qui les voyait passer à l’angle de son mur
Pensait à ces cités d’or, de brume et d’azur,
Qui font l’effet d’un songe à la foule effarée:
Tyr, Héliopolis, Solyme, Césarée.
Ils surgissaient du sud ou du septentrion,
Portant sur leur écu l’hydre ou l’alérion,
Couverts des noirs oiseaux du taillis héraldique,
Marchant seuls au sentier que le devoir indique,
Ajoutant au bruit sourd de leur pas solennel
La vague obscurité d’un voyage éternel,
Ayant franchi les flots, les monts, les bois horribles,
Ils venaient de si loin, qu’ils en étaient terribles;
Et ces grands chevaliers mêlaient à leurs blasons
Toute l’immensité des sombres horizons.

Les chevaliers errants
La terre a vu jadis errer des paladins;
Ils flamboyaient ainsi que des éclairs soudains,
Puis s’évanouissaient, laissant sur les visages
La crainte, et la lueur de leurs brusques passages;
Ils étaient, dans des temps d’oppression, de deuil,
De honte, où l’infamie étalait son orgueil,
Les spectres de l’honneur, du droit, de la justice;
Ils foudroyaient le crime, ils souffletaient le vice;
On voyait le vol fuir, l’imposture hésiter,
Blêmir la trahison, et se déconcerter
Toute puissance injuste, inhumaine, usurpée,
Devant ces magistrats sinistres de l’épée;
Malheur à qui faisait le mal! Un de ces bras
Sortait de l’ombre avec ce cri: -Tu périras!-
Contre le genre humain et devant la nature,
De l’équité suprême ils tentaient l’aventure;
Prêts à toute besogne, à toute heure, en tout lieu,
Farouches, ils étaient les chevaliers de Dieu.

Ils erraient dans la nuit ainsi que des lumières.

Leur seigneurie était tutrice des chaumières;
Ils étaient justes, bons, lugubres, ténébreux;
Quoique gardé par eux, quoique vengé par eux,
Le peuple en leur présence avait l’inquiétude
De la foule devant la pâle solitude;
Car on a peur de ceux qui marchent en songeant,
Pendant que l’aquilon, du haut des cieux plongeant,
Rugit, et que la pluie épand à flots son urne
Sur leur tête entrevue au fond du bois nocturne.

Ils passaient effrayants, muets, masqués de fer.

Quelques-uns ressemblaient à des larves d’enfer;
Leurs cimiers se dressaient difformes sur leurs heaumes;
On ne savait jamais d’où sortaient ces fantômes;
On disait: -Qui sont-ils? d’où viennent-ils? Ils sont
Ceux qui punissent, ceux qui jugent, ceux qui vont.-
Tragiques, ils avaient l’attitude du rêve.

O les noirs chevaucheurs! ô les marcheurs sans trêve!
Partout où reluisait l’acier de leur corset,
Partout où l’un d’eux, calme et grave, apparaissait
Posant sa lance au coin ténébreux de la salle,
Partout où surgissait leur ombre colossale,
On sentait la terreur des pays inconnus;
Celui-ci vient du Rhin; celui-là du Cydnus;
Derrière eux cheminait la Mort, squelette chauve;
Il semblait qu’aux naseaux de leur cavale fauve
On entendît la mer ou la forêt gronder;
Et c’est aux quatre vents qu’il fallait demander
Si ce passant était roi d’Albe ou de Bretagne,
S’il sortait de la plaine ou bien de la montagne,
S’il avait triomphé du maure, ou du chenil
Des peuples monstrueux qui hurlent près du Nil;
Quelle ville son bras avait prise ou sauvée;
De quel monstre il avait écrasé la couvée.

Les noms de quelques-uns jusqu’à nous sont venus;
Ils s’appelaient Bernard, Lahire, Eviradnus;
Ils avaient vu l’Afrique; ils éveillaient l’idée
D’on ne sait quelle guerre effroyable en Judée;
Rois dans l’Inde, ils étaient en Europe barons;
Et les aigles, les cris des combats, les clairons,
Les batailles, les rois, les dieux, les épopées,
Tourbillonnaient dans l’ombre au vent de leurs épées;
Qui les voyait passer à l’angle de son mur
Pensait à ces cités d’or, de brume et d’azur,
Qui font l’effet d’un songe à la foule effarée:
Tyr, Héliopolis, Solyme, Césarée.
Ils surgissaient du sud ou du septentrion,
Portant sur leur écu l’hydre ou l’alérion,
Couverts des noirs oiseaux du taillis héraldique,
Marchant seuls au sentier que le devoir indique,
Ajoutant au bruit sourd de leur pas solennel
La vague obscurité d’un voyage éternel,
Ayant franchi les flots, les monts, les bois horribles,
Ils venaient de si loin, qu’ils en étaient terribles;
Et ces grands chevaliers mêlaient à leurs blasons
Toute l’immensité des sombres horizons.

Trái đất đã thấy ruổi rong xua những chàng hiệp sĩ
Chói ngời lên như ánh chớp bất ngờ
Rồi biến đi, để lại trên mặt người nỗi sợ
Và ánh sáng bùng của những chuyến vút qua
Trong thế kỷ của áp bức, tóc tang, xấu hổ
Khi sự sự nhuốc nơ, kiêu hãnh phô bày
Họ là những bóng ma của công lý, nhân quyền, danh dự
Tội ác bị bêu đầu và thói xấu bị bạt tai
Người ta thấy sự ăn cắp chạy dài, thói gian manh lưỡng lự
Mặt phản bội tái xanh và ngơ ngác kiếm hồn
Mọi thế lực chiếm đoạt bất công lang sói
Trước những vị quan tào nghiêm khắc của lưỡi gươm
Rủi cho kẻ bất lương! Một cánh tay thò ra trong tối
Một tiếng thét oai nghiêm:”Mày sẽ lìa đời!”
Họ tiến hành cuộc phiêu lưu của sự công bằng chí thượng
Trước thiên nhiên và chống lại giống người
Sẵn sàng trước mọi khó khăn, thời gian, tình huống
Họ là những hung thần, hiệp sĩ của Cao Xanh

Họ rong ruổi trong đêm như Ánh sáng

Và thuộc dòng những người bảo hộ mái tranh
Họ nhân đức, công bằng, lầm lì, u ám
Mặc dù được chở che và được trả hờn
Dân chúng trước mắt họ vẫn còn mang nỗi sợ
Của đám đông người trước thăm thẳm cô đơn
Người ta ngại những kẻ vừa đi, vừa tư lự
Trong lúc gió cuồng gào thét thinh không
Và mưa giận ào ào tuôn tựa thác
Trên đầu họ chập chờn qua hun hút đêm rừng

Họ đi rùng rợn, lặng câm, mặt bịt sau mạng sắt

Có người giống như quỷ dữ của diêm vương
Ngù lông dựng dị hình trên mũ chiến
Những bóng ma này ai biết rõ quê hương
Người ta hỏi: Họ là ai? Họ tự phương nào đến?
Họ là những quan toà, người trừng trị, kẻ phiêu du
Những nhân vật bi hùng đương thoảng qua như giấc mộng

Ôi! Những hiệp sĩ âm u! Ôi những bước chân không mỏi giang hồ
Bất cứ đâu nơi giáp trụ họ lóe lên chớp động
Lẳng lặng xuất hiện đặt chiếc giáo dài trong góc tối
Bất cứ nơi đâu bóng anh hùng đồ sộ hiện lên
Người ta thấy sự khiếp hãi của những phương trời xa vời vợi
Những dòng sông xa sóng giận đằng đằng
Phía sau họ lẽo đẽo tử thần, bộ xương đầu hói
Hình như từ mũi ngựa hung hăng
Còn vang động tiếng biển rừng gào gọi
Chỉ gió bốn phương có thể trả lời ta
Hiệp sĩ kia đến từ bình nguyên hay rừng rú
Là vua An-bơ hay chúa đất Brơta
Đã chiến thắng quân Môrơ hay đàn chó dữ
Của những bầy quái sinh gầm hú cạnh sông Nin
Thành phố nào đã bị cánh tay này cứu nguy hay đạp đổ
Ổ quái vật nào đã chết dưới gươm thiêng

Tên một vài người, thời chúng ta còn vang vọng
Những Bescna, Êviratnuýt, Lahia
Họ đã thấy Châu Phi – cuộc chiến tranh nào nóng bỏng
Đã được h ọ thổi bùng lên trên đất Giuyđê
Họ là Nam tước Châu Âu và vua bên Ấn Độ
Và những chim ưng, những lời hô chém giết, tiếng kèn đồng
Những trận đánh, những thiên anh hùng ca, thần linh, vua chúa
Quay cuồng trong giông bão những đường gươm
Ai thấy họ vút qua bên ngưỡng cửa
Nghĩ đến thành phố đầy vàng son, sương phủ, trời xanh
Như giấc mộng lung linh trước đám đông khiếp sợ
Tyr, Héliopolis, Solyme, Césarée và vô số những đô thành
Họ xuất hiện từ phương Nam hay phía sao Bắc mọc
Mang hình mãng xà hay chim ó trên khiên
Bao phủ những chim đen của rừng huân chương học
Đi một mình trên con đường nghĩa vụ thiêng liêng
Thêm vào bước trầm hùng bước chân trang trọng
Bóng tối mơ hồ một cuộc viễn du
Vượt trăm núi hiểm nghèo, ngàn khơi cuộn sóng
Mang hơi thở kinh hoàng của những đất xa
Và những đại hiệp kia hòa lẫn vào huy chương của họ
Tất cả bao la của thăm thẳm những chân trời

Racan
Si toutes les choses qu’on rêve
Pouvaient se changer en amours,
Ma voix, qui dans l’ombre s’élève,
Osant toujours, tremblant toujours,

Qui, dans l’hymne qu’elle module,
Mêle Astrée, Eros, Gabriel,
Les dieux et les anges, crédule
Aux douces puissances du ciel,

Pareille aux nids qui, sous les voiles
De la nuit et des bois touffus,
Échangent avec les étoiles
Un grand dialogue confus,

Sous la sereine et sombre voûte
Sans murs, sans portes et sans clés,
Mon humble voix prendrait la route
Que prennent les cœurs envolés,

Et vous arriverait, touchante,
À travers les airs et les eaux,
Si toutes les chansons qu’on chante,
Pouvaient se changer en oiseaux.

Nếu tất cả những gì ta mơ ước
Một ngày kia sẽ hoá tình yêu
Trong bóng tối tiếng tôi cao vút
Cả gan nhiều, run rẩy cũng nhiều

Trong bài hát giọng cất lên lánh lỏi
Hoà lẫn Astrée, Eros, Gabriel,
Đủ màu sắc Thánh Thần về tụ hội
Cả tin Cao Xanh những sức mạnh dịu hiền

Giống như những tổ chim bé nhỏ
Dưới vòm đêm, vòm lá sum suê
Trao đổi với các vì tinh tú
Cuộc đàm thoại lớn thầm thì

Dưới vòm đêm mênh mông thanh thản
Không cửa ngăn, không khoá, không tường
Theo lối những con tim cất cánh
Tiếng nói tôi khiêm tốn lên đường

Và đến lúc các người khao khát
Qua nghìn trùng mây nước xa xôi
Nếu tất cả những bài ca ta hát
Một ngày kia sẽ hoá chim trời

Rôngxa Ronsard

Ronsard
C’est fort juste, tu veux commander en cédant;
Viens, ne crains rien; je suis éperdu, mais prudent;
Suis-moi; c’est le talent d’un amant point rebelle
De conduire au milieu des forêts une belle,
D’être ardent et discret, et d’étouffer sa voix
Dans le chuchotement mystérieux des bois.
Aimons-nous au-dessous du murmure des feuilles;
Viens, je veux qu’en ce lieu voilé tu te recueilles,
Et qu’il reste au gazon par ta langueur choisi
Je ne sais quel parfum de ton passage ici;
Laissons des souvenirs à cette solitude.
Si tu prends quelque molle et sereine attitude,
Si nous nous querellons, si nous faisons la paix,
Et si tu me souris sous les arbres épais,
Ce lieu sera sacré pour les nymphes obscures;
Et le soir, quand luiront les divins Dioscures,
Ces sauvages halliers sentiront ton baiser
Flotter sur eux dans l’ombre et les apprivoiser;
Les arbres entendront des appels plus fidèles,
De petits cœurs battront sous de petites ailes,
Et les oiseaux croiront que c’est toi qui bénis
Leurs amours, et la fête adorable des nids.
C’est pourquoi, belle, il faut qu’en ce vallon tu rêves.
Et je rends grâce à Dieu, car il fit plusieurs Èves,
Une aux longs cheveux d’or, une autre au sein bruni,
Une gaie, une tendre, et quand il eut fini
Ce Dieu, qui crée au fond toujours les mêmes choses,
Avec ce qui restait des femmes, fit les roses.

Thật rất đúng, khi em muốn chỉ huy bằng nhượng bộ
Hãy đến đây đừng sợ, anh đam mê nhưng chẳng buông tuồng
Đi theo anh… tư cách của một người tài tử
Là biết dẫn một giai nhân đi dạo trong rừng
Biết cháy bỏng như hòn than và kín đáo
Biết ngậm lời trong tiếng rì rào kì bí của sơn khê
Ta hãy yêu nhau dưới lá ngàn chao đảo
Anh muốn em ngồi tĩnh tâm trong bóng rợp thầm thì
Và vương trên cỏ non nơi em ơ thờ ngồi nghỉ
Một mùi hương nhắc nhở bóng người tiên
Ta hãy kỷ niệm cho rừng xanh vắng vẻ
Nếu một cử chỉ em êm ả dịu mềm
Nếu chúng ta cãi nhau, nếu chúng ta làm lành trở lại
Nếu em mỉm cười với anh dưới tán cây xanh
Nơi đây sẽ linh thiêng với những nữ thần hoang dại
Và chiều nay khi chòm sao huynh đệ mọc long lanh
Những bụi rậm hoang vu sẽ cảm thấy chiếc hôn em rộn rã
Bập bềnh trong đêm và làm chúng hoá hiền lành
Cây sẽ nghe những tiềng gọi thuỷ chung hơn nữa
Những trái tim nhỏ phập phồng dưới cánh mong manh
Chim sẽ nghĩ rằng chính em đang phù hộ
Tình yêu và hội hè đầm ấm tổ đôi
Chính vì vậy mà người đẹp ơi! Em phải mơ màng nơi lũng vắng
Và anh tạ ơn Trời đã sinh ra nhiều nàng Evơ đẹp tuyệt vời
Nàng suối tóc vàng buông, nàng vú căng màu nắng
Nàng hiền dịu, nàng vui tươi… và khi kế hoạch đã xong rồi
Thượng đế tính cho cùng, vốn luôn luôn sáng chế cùng một thứ
Với chất liệu còn sót lại những nàng Evơ sản xuất những hoa hồng

Après la bataille
Mon père, ce héros au sourire si doux,
Suivi d’un seul housard qu’il aimait entre tous
Pour sa grande bravoure et pour sa haute taille,
Parcourait à cheval, le soir d’une bataille,
Le champ couvert de morts sur qui tombait la nuit.
Il lui sembla dans l’ombre entendre un faible bruit.
C’était un Espagnol de l’armée en déroute
Qui se traînait sanglant sur le bord de la route,
Râlant, brisé, livide, et mort plus qu’à moitié.
Et qui disait: “A boire! à boire par pitié!”
Mon père, ému, tendit à son housard fidèle
Une gourde de rhum qui pendait à sa selle,
Et dit: “Tiens, donne à boire à ce pauvre blessé.”
Tout à coup, au moment où le housard baissé
Se penchait vers lui, l’homme, une espèce de maure,
Saisit un pistolet qu’il étreignait encore,
Et vise au front mon père en criant: “Caramba!”
Le coup passa si près que le chapeau tomba
Et que le cheval fit un écart en arrière.
“Donne-lui tout de même à boire”, dit mon père.

Cha tôi, người anh hùng với nụ cười hiền dịu
Cùng một lính hầu thân cận người thương
Vì tầm vóc trượng phu và lòng dũng cảm phi thường
Rong ruổi buổi chiều sau trận đánh
Chiến trường xác ngổn ngang đêm xuống lạnh
Có tiếng kêu yếu ớt vẳng bên đường
Một tên lính Tây Ban Nha thuộc đám bại quân
Nằm rên rỉ máu đầy người bê bết
Mặt tái nhợt như chỉ còn đợi chết
“Cho tôi xin… hớp nước… làm ơn!”
Cha tôi mủi lòng nhìn kẻ bị thương
Tháo bình rượu sau yên trao người lính hầu trung dũng
Và bảo: “Người cầm lấy rót cho hắn uống”
Trong lúc người cận vệ nghiêng mình
Đưa bình rượu… tên bại binh
Thình lình giơ súng lên quyết liệt
Nhằm trán cha tôi la to: “Mày phải chết!”
Viên đạn bay quá gần làm chiếc mũ bắn tung
Và con ngựa nhảy lui một bước hãi hùng
Cha tôi nói: “Cứ cho hắn uống”.

De quel droit mettez-vous des oiseaux dans des cages?

De quel droit ôtez-vous ces chanteurs aux bocages,
Aux sources, à l’aurore, à la nuée, aux vents?
De quel droit volez-vous la vie à ces vivants?
Homme, crois-tu que Dieu, ce père, fasse naître
L’aile pour l’accrocher au clou de ta fenêtre?
Ne peux-tu vivre heureux et content sans cela?
Qu’est-ce qu’ils ont donc fait tous ces innocents-là
Pour être au bagne avec leur nid et leur femelle?

Qui sait comment leur sort à notre sort se mêle?
Qui sait si le verdier qu’on dérobe aux rameaux,
Qui sait si le malheur qu’on fait aux animaux
Et si la servitude inutile des bêtes
Ne se résolvent pas en Nérons sur nos têtes?
Qui sait si le carcan ne sort pas des licous?
Oh! de nos actions qui sait les contre-coups,
Et quels noirs croisements ont au fond du mystère
Tant de choses qu’on fait en riant sur la terre?
Quand vous cadenassez sous un réseau de fer
Tous ces buveurs d’azur faits pour s’enivrer d’air,
Tous ces nageurs charmants de la lumière bleue,
Chardonneret, pinson, moineau franc, hochequeue,
Croyez-vous que le bec sanglant des passereaux
Ne touche pas à l’homme en heurtant ces barreaux?

Prenez garde à la sombre équité. Prenez garde!
Partout où pleure et crie un captif, Dieu regarde.
Ne comprenez-vous pas que vous êtes méchants?
À tous ces enfermés donnez la clef des champs!
Aux champs les rossignols, aux champs les hirondelles;
Les âmes expieront tout ce qu’on fait aux ailes.
La balance invisible a deux plateaux obscurs.
Prenez garde aux cachots dont vous ornez vos murs!
Du treillage aux fils d’or naissent les noires grilles;
La volière sinistre est mère des bastilles.
Respect aux doux passants des airs, des prés, des eaux!
Toute la liberté qu’on prend à des oiseaux
Le destin juste et dur la reprend à des hommes.
Nous avons des tyrans parce que nous en sommes.
Tu veux être libre, homme ? et de quel droit, ayant
Chez toi le détenu, ce témoin effrayant?
Ce qu’on croit sans défense est défendu par l’ombre.
Toute l’immensité sur ce pauvre oiseau sombre
Se penche, et te dévoue à l’expiation.
Je t’admire, oppresseur, criant: oppression!
Le sort te tient pendant que ta démence brave
Ce forçat qui sur toi jette une ombre d’esclave
Et la cage qui pend au seuil de ta maison
Vit, chante, et fait sortir de terre la prison.

Các ngươi có quyền gì nhốt chim vào lồng nhỏ?

Các ngươi có quyền gì tách những ca sĩ này khỏi rừng cây?
Khỏi suối ngàn, rạng đông và mênh mông khói gió?
Các ngươi có quyền gì đánh cắp cuộc đời lồng lộng trời mây?
Hay ngươi tưởng Thượng đế sinh ra chiếc cánh
Để ngươi đóng đinh treo trên cửa sổ ngày ngày?
Niềm vui của đời ngươi có vì vậy mà thêm lấp lánh?
Chúng có tội tình gì, những sinh vật nhỏ thơ ngây
Để tổ ấm, vợ con bị giam cầm trong ngục tối?

Ai biết số phận chúng quan hệ gì với số phận chúng ta?
Ai biết con khổng tước ta bắt về từ trên cành nhội
Ai biết những bạo hành làm thú vật xót xa
Và sự nô lệ vô ích quàng lên cổ chúng
Lại chẳng dẫn đến Nêrông trên đầu cổ con người?
Sợi dây tròng cổ bò có thể sinh ra những xích xiềng kinh khủng?
Ôi! Hành động của ta rồi nhân quả thế nào?
Ai biết việc ta vừa làm vừa cười trên Trái đất
Sẽ gặp những giao điểm bi đát nào trong thế giới của đêm thâu?
Khi các ngươi giam cầm trong cũi sắt
Tất cả những con vật sinh ra để tuý luý trời
Bầy cá kình đáng yêu của mênh mông ánh sáng
Chim sáo, chim ri, chim rẻ quạt, chìa vôi
Các ngươi có nghĩ rằng chiếc mỏ con vàng anh máu đẫm
Khi mổ những chấn song lồng giam, không động chạm tới con người?

Hãy liệu chừng! Hãy liệu chừng! Lẽ công bằng thảm khốc
Bất cứ đâu một sinh vật bị cầm tù khóc lóc kêu than
Đều có mặt Cao Xanh rọi tới – Hỡi con người ác độc!
Hãy xét mình và mở tung cánh cửa các nhà giam
Cho chim nhạn, chim oanh phơi phới
Những vi phạm sự bay, rồi báo oán đến linh hồn
Chiếc cân vô hình hai đĩa bập bềnh bóng tối
Hãy coi chừng những nhà giam ta trang điểm trên tường
Sợi lưới vàng sẽ sinh ra những hàng rào giam giữ
Lồng nuôi chim thê lương là mẹ đẻ các nhà tù
Hãy trọng những khách du của khoảng không, dòng sông, bãi cỏ
Định mệnh khắc nghiệt và công minh bắt nhân loại phải đền bù
Tất cả khoảng tự do ta lấy đi của bầy chim nhỏ
Bạo chúa ngồi trên đầu ta vì bản chất chúng ta
Tàn bạo. Con người có quyền gì đòi tự do khi tự tay càn rỡ
Cầm tù những chứng nhân kia khủng khiếp ở trong nhà?
Vật ngươi tưởng yếu hèn có bóng đêm che chở
Cả đất trời trên con chim bất hạnh âu lo
Và vạch mặt gọi tên người hỏi tội:
Ôi! Kẻ cướp Tự do kêu gào mất Tự do!
Số phận đã đến gần khi ngươi điên rồ phạm lỗi
Nỗi đau của phạm nhân in bóng đen nô lệ xuống đầu thù
Và chiếc lồng ngươi treo nơi ngưỡng cửa
Nhảy nhót, véo von xui Trái đất mọc nhà tù!

Écrit en exil
L’heureux n’est pas le vrai, le droit n’est pas le nombre;
Un vaincu toujours triste, un vainqueur toujours sombre,
Le sort n’a-t-il donc pas d’autre oscillation?
Toujours la même roue et le même Ixion!
Qui que vous soyez, Dieu vers qui tout me ramène,
Si le faible souffrait en vain, si l’âme humaine
N’était qu’un grain de cendre aux ouragans jeté,
Je serais mécontent de votre immensité;
Il faut, dans l’univers, fatal et pourtant libre,
Aux âmes l’équité comme aux cieux l’équilibre;
J’ai besoin de sentir de la justice au fond
Du gouffre où l’ombre avec la clarté se confond;
J’ai besoin du méchant mal à l’aise, et du crime
Retombant sur le monstre et non sur la victime;
Un Caïn triomphant importune mes yeux;
J’ai besoin, quand le mal est puissant et joyeux,
D’un certain grondement là-haut, et de l’entrée
Du tonnerre au-dessus de la tête d’Atrée.

Sung sứng hông là thực, quyền không thuộc số đông
Kẻ thắng luôn ảo não, người bại luôn u buồn
Số phận không biết vần xoay kiểu khác?
Hay chỉ một bánh xe, một I-xi-ôn!
Dầu Chúa là ai, Chúa với ta ai cũng nhắc
Nếu kẻ yếu chỉ khổ đau vô ích
Nếu hồn người là hạt cát ném trận phong ba
Thì ta bất bình với danh Chúa bao la
Trên thế giới tự do, dầu là tiền định
Con người cần công bằng như đất trời mong ổn định
Ta muốn cảm nhận nền công lý tận đáy vực sâu
Nơi ánh sáng và bóng đêm hoà nhập cùng nhau
Ta muốn kẻ bạo tàn luôn bứt rứt
Tội ác rơi lại đầu quỷ dữ, không hại người oan khuất
Mắt ta không nhìn nổi cảnh gã Canh sát hại người
Nếu điều ác luôn có sức mạnh và vui tươi
Thì ta cần sấm vang trời cao thẳm
Và sét đánh A-tơ-rê dập đầu loài rắn

Autrefois, j’ai connu Ferdousi
Autrefois, j’ai connu Ferdousi dans Mysore.
Il semblait avoir pris une flamme à l’aurore
Pour s’en faire une aigrette et se la mettre au front;
Il ressemblait aux rois que n’atteint nul affront,
Portait le turban rouge où le rubis éclate
Et traversait la ville habillé d’écarlate.

Je le revis dix ans après vêtu de noir.
Et je lui dis:
— Ô toi qu’on venait jadis voir
Comme un homme de pourpre errer devant nos portes,
Toi, le seigneur vermeil, d’où vient donc que tu portes
Cet habit noir, qui semble avec de l’ombre teint?
— C’est, me répondit-il, que je me suis éteint.

Xưa, tôi đã gặp Ferdousi tại một đô thị miền Nam Ấn
Nhà thơ như đã lấy được về ngọn lửa của hừng đông
Làm một chiếc lông chim cắm bên vầng trán
Ông như bậc quân vương ngoài tầm mọi hành vi xúc phạm
Quấn chiếc khăn hồng, long lanh viên hồng ngọc đỏ tươi
Và đi phố chơi trong tấm áo chói ngời

Mười năm sau gặp lại ông trong màu đen tang tóc
Tôi hỏi:
– Ôi nhà thơ xưa như mặt trời mới mọc
Trước cửa rong chơi tha thẩn vầng hồng
Vị vương hầu của màu sắc rạng đông
Sao người mặc bộ đồ đen như nhuộm bằng bóng tối?
Nhà thơ trả lời: – Vì ngọn lửa trong ta tàn lụi

Trên đây là 14 bài thơ nằm trong tập thơ Truyền thuyết những thế kỷ La légende des siècles (1859) của nhà văn Victor Hugo được bạn đọc yêu thích hiện nay.

Xem thêm: Victor Hugo – Cây bút văn thơ vĩ đại của thế giới P1

Related posts

Nhà thơ Nguyễn Duy và tập thơ Về (1984) hay đặc sắc phần đầu

admin

Ấm Bảy (Muôn) – nhà thơ nổi tiếng ở miền Núi Ấn Sông Trà

admin

Nguyễn Tất Nhiên cùng những trang thơ ấn tượng nhất phần 2

admin

Leave a Comment