Thơ Hay

Bắc Hành Tạp Lục – Tập thơ nổi tiếng nhất của Nguyễn Du phần 3

Bắc Hành Tạp Lục là một thi phẩm hay và đầy cảm xúc của nhà thơ Nguyễn Du. Đọc thơ ông ta dễ dàng bắt gặp một hồn thơ u buồn đầy xúc cảm khiến trái tim bạn đọc lung lay. Thơ chữ Hán Nguyễn Du như một tiếng thở dài luận bàn nhân tâm thế sự và xót thương thân phận sâu sắc. Ông thường bày tỏ nỗi lòng của kẻ tha hương, nỗi nhớ quê nhà luôn hiện hữu trong những trang thơ của ông. Nếu bạn yêu thích tập thơ này thì hãy cùng chúng tôi đón xem nhé!

Nội Dung

文昌閣上夜燈明,
一片寒光射水晶。
來往遊船不知數,
滿江齊發棹哥聲。

Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 02

Văn Xương các thượng dạ đăng minh,
Nhất phiến hàn quang xạ thuỷ tinh.
Lai vãng du thuyền bất tri số,
Mãn giang tề phát trạo ca thanh.

Dịch nghĩa

Đèn đêm sáng ngời gác Văn Xương,
Một màng nước chiếu sáng như gương.
Thuyền bè qua lại nhiều vô kể,
Khắp sông vang vọng lời ca vương.

青山樓閣一層層,
晝見煙霞夜見燈。
古寺無名難問訊,
白雲深處臥山僧。

Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 04

Thanh sơn lâu các nhất tằng tằng,
Trú kiến yên hà dạ kiến đăng.
Cổ tự vô danh nan vấn tấn,
Bạch vân thâm xứ ngọa sơn tăng.

Dịch nghĩa

Núi xanh, lầu cao hàng lớp lớp,
Ngày thấy mây khói, tối ánh đèn.
Chùa cũ không tên biết hỏi ai,
Trong lớp mây trắng nhà sư nằm.

浪花雙棹疾如飛,
看罷龍舟抵暮歸。
生面相逢無畏避,
瓠犀微露笑南夷。

Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 05

Lãng hoa song trạo tật như phi,
Khán bãi long châu để mộ quy.
Sinh diện tương phùng vô uý tị,
Hồ tê vi lộ tiếu Nam di.

Dịch nghĩa

Đôi chèo thuyền quẩy sóng lướt như bay,
Xem cuộc đua chải đến chiều về.
Gặp người lạ chẳng hề e ngại,
Hé răng đẹp cười thấy người khách phương Nam.

一聲裂竹散硫磺,
驚起沙汀鴈數行。
天際遙瞻歸去處,
蒼梧北上定衡陽。

Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 06

Nhất thanh liệt trúc tán lưu hoàng,
Kinh khởi sa đinh nhạn sổ hàng.
Thiên tế giao chiêm quy khứ xứ,
Thương Ngô bắc thướng định Hành Dương.

Dịch nghĩa

Một tiếng pháo nổ, khói lưu hoàng bốc ra
Đàn nhạn kinh hãi từ bãi cát bay lên
Nhìn trời xem bay về phương nào
Từ Thương Ngô bay lên Bắc đoán là đến Hành Dương.

長江波浪渺無涯,
三五遊船趁夜開。
無月無燈看不見,
琵琶聲自水中來。

Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 07

Trường giang ba lãng diểu vô nhai,
Tam ngũ du thuyền sấn dạ khai.
Vô nguyệt vô đăng khan bất kiến,
Tỳ bà thanh tự thuỷ trung lai.

Dịch nghĩa

Sông Trường sóng nước chẳng thấy bờ,
Ba năm thuyền lướt trong đêm mờ.
Không trăng không đèn nhìn chẳng rõ,
Tiếng tì bà đâu đó vẳng trên sông.

雞籠山在水中央,
萬頃煙波共渺茫。
相約東家具舟楫,
天妃閣上共焚香。

Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 08

Kê Lung sơn tại thuỷ trung ương,
Vạn khoảnh yên ba cộng diểu mang.
Tương ước đông gia cụ chu tiếp,
Thiên phi các thượng cộng phần hương.

Dịch nghĩa

Kê Lung núi ở giữa dòng sông,
Khói sóng vạn lớp trải trập trùng.
Đã hẹn chủ thuyền cùng sửa soạn,
Viếng gác Thiên phi cùng thắp nhang.

城北山榴紅更紅,
城南垂柳不禁風。
絮飛花落無人管,
一夜隨流到廣東。

Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 09

Thành bắc sơn lưu hồng cánh hồng,
Thành nam thùy liễu bất câm phong.
Nhứ phi hoa lạc vô nhân quản,
Nhất dạ tuỳ lưu đáo Quảng Đông.

Dịch nghĩa

Phía thành bắc lựu núi hồng thêm hồng,
Nơi thành nam liễu rủ gió thổi tung.
Liễu bay hoa rơi rụng không người biết,
Một đêm xuôi dòng ghé Quảng Đông.

十隻龍舟一字陳,
敲鑼撾鼓弔靈均。
黃花閨女貪行樂,
跳出船頭不避人。

Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 11

Thập chích long châu nhất tự trần,
Xao la qua cổ điếu Linh quân.
Hoàng hoa khuê nữ tham hành lạc,
Khiêu xuất thuyền đầu bất tị nhân.

Dịch nghĩa

Mười thuyền rồng sắp hàng chữ nhất,
Chiêng trống vang rền điếu Khuất nguyên.
Cài hoa vàng một nàng ham vui quá,
Ngay mũi thuyền đứng xem chẳng tị hiềm ai.

棠舟蘭棹日繽紛,
往往來來不厭頻。
記取畫船三五隻,
最風流是布衣人。

Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 12

Đường chu lan tiếp nhật tần phân,
Vãng vãng lai lai bất yếm tần.
Ký thủ hoạ thuyền tam ngũ chích,
Tối phong lưu thị bố y nhân.

Dịch nghĩa

Thuyền gỗ đường, chèo gỗ lan nhộn nhịp cả ngày,
Đi đi lại lại không nghỉ ngơi.
Tay viết vẽ xuống ba năm chiếc thuyền,
Lịch lãm nhất là người mặc áo vải.

沿城楊柳不勝柔,
葉葉絲絲未及秋。
好向風前看搖洩,
最癲狂處最風流。

Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 13

Duyên thành dương liễu bất thăng nhu,
Diệp diệp ty ty vị cập thu.
Hảo hướng phong tiền khán dao duệ,
Tối điên cuồng xứ tối phong lưu.

長裙習習曳輕綃,
雲髻峨峨擁翠翹。
贏得鬼頭滿囊口,
憑君無福也能消。

Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 14

Trường quần tập tập duệ khinh tiêu,
Vân kế nga nga ủng thuý kiều.
Doanh đắc quỷ đầu mãn mang khẩu,
Bằng quân vô phúc dã năng tiêu.

Dịch nghĩa

Quần lụa dài thướt tha kiều nữ,
Tóc bới cao, lông chim thúy điểm trâm cài.
Cứ rằng có tiền bạc đầy túi,
Thì dù không có phúc vẫn có duyên với họ.

船尾燈籠四尺竿,
船頭畫虎黑斑斑。
布旗上冩巡河字,
只詰花船不詰姦。

Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 15

Thuyền vĩ đăng lung tứ xích can,
Thuyền đầu hoạ hổ hắc ban ban.
Bố kỳ thượng tả “Tuần hà” tự,
Chỉ cật hoa thuyền bất cật gian.

Dịch nghĩa

Đuôi thuyền có đèn lồng cán dài bốn thước,
Mũi thuyền có hình vẽ hổ vằn lông đen.
Cờ trưng cao đề hai chữ “Tuần hà”
Tuần viên chỉ chặn hỏi thuyền hoa, còn thuyền gian thì mặc kệ.

山雲削略岸花明,
見說楊妃此地生。
自是舉朝空立仗,
枉教千古罪傾城。
簫簫南內蓬篙遍,
寞寞西郊丘隴平。
狼藉殘紅無覓處,
東風城下不勝情。

Dương Phi cố lý

Sơn vân tước lược ngạn hoa minh,
Kiến thuyết Dương Phi thử địa sinh.
Tự thị cử triều không lập trượng,
Uổng giao thiên cổ tội khuynh thành.
Tiêu tiêu Nam Nội bồng cao biến,
Mịch mịch Tây Giao khâu lũng bình.
Lang tạ tàn hồng vô mịch xứ,
Đông phong thành hạ bất thăng tình.

Dịch nghĩa

Núi mây thưa thớt hoa rực rỡ bên bờ,
Nghe nói đây là quê sinh đẻ của Dương Phi.
Chỉ tại triều đình như tuồng phỗng đá,
Khiến xui ngàn năm cứ đổ tội sắc nghiêng thành.
Trong cung Nam buồn cỏ bồng mọc khắp lối,
Vắng vẻ Tây giao, gò đống phẳng bằng.
Phấn lạt hương phai biết tìm đâu,
Dưới thành gió đông gợi nhiều cảm thương.

暴楚強秦相繼誅,
雍容揖遜霸南陬。
自娛儘可稱皇帝,
樂善還能屈豎儒。
百尺高臺傾嶺表,
千年古墓沒番禺。
可憐世代相更迭,
不及蠻夷一老夫。

Triệu Vũ Đế cố cảnh

Bạo Sở cường Tần tương kế tru,
Ung dung ấp tốn bá nam tu.
Tự ngu tẫn khả xưng hoàng đế,
Lạc thiện hoàn năng khuất thụ nhu.
Bách xích cao đài khuynh Lĩnh Biểu,
Thiên niên cổ mộ một Phiên Ngu.
Khả liên thế đại tương canh diệt,
Bất cập man di nhất lão phu.

Dịch nghĩa

Sở, Tần hai nước cường bạo theo nhau diệt vong
Ông cứ ung dung nhũn nhặn làm bá chủ phương nam
Tùy thích có thể xưng hoàng đế
Vui điều thiện chịu khuất với chú nhà nho hèn mọn
Đài cao trăm thước ở Lĩnh Biểu đã nghiêng đổ
Ngôi mộ cổ nghìn năm ở Phiên Ngung đã mất
Thương cho đời này theo đời kia thay đổi nhau
Nhưng không bằng ông lão Man Di

羽師涕泣憑夷怒,
五指山前水暴注。
白波終日走蛇龍,
青山兩岸皆豺虎。
舟楫紛紛同一流,
下灘人喜上灘愁。
百丈長繩挽不進,
舟中年少皆白頭。

Bất tiến hành

Vũ sư thế khấp Bằng di nộ,
Ngũ chỉ sơn tiền thủy bạo chú.
Bạch ba chung nhật tẩu xà long,
Thanh sơn lưỡng ngạn giai sài hổ.
Chu tiếp phân phân đồng nhất lưu,
Há than nhân hỉ thướng than sầu.
Bách trượng trường thằng vãn bất tiến,
Chu trung niên thiếu giai bạch đầu.

Dịch nghĩa

Thần mưa khóc thần nước giận,
Vùng núi Ngũ chỉ nước trút rào rào.
Sóng bạc suốt ngày cuồn cuộn như rắn rồng,
Núi xanh hai bờ tựa cọp beo.
Thuyền bè rộn rịp cùng một sông
Đi xuôi mừng rỡ, ngược dòng sầu bi
Trăm trượng dây dài kéo không chuyển,
Trong thuyền người trẻ cũng bạc cả đầu.

Bắc Hành Tạp Lục là một thi phẩm chứa đựng nhiều cảm xúc mạnh mẽ của nhà thơ Nguyễn Du. Từ chính cảnh ngộ của mình ông thông cảm sâu sắc, tạo nên tình cảm thấm thía cho những bài thơ thương đời. Thương đời và thương mình đều da diết như nhau. Nguyễn Du hay nói tới thân phận tha hương, lưu lạc. Mời các bạn đón xem phần 4 vào một ngày gần nhất. Thân Ái!

Xem Thêm: Bắc Hành Tạp Lục – Tập thơ nổi tiếng nhất của Nguyễn Du phần 2

Related posts

Tập Thơ Chữ Hán Vang danh của nhà thơ Hồ Chí Minh phần 2

admin

Bài Thơ Quả Na Đặc Sắc : Nuôi Dưỡng Tâm Hồn Thiếu Nhi

admin

Top những câu thả thính trai hay nhất trên facebook dành riêng cho nàng FA

admin

Leave a Comment