Thơ Hay

Chùm thơ Tào Tháo đặc sắc được yêu thích nhất mọi thời đại

Những bài thơ Tào Tháo luôn được bạn đọc yêu thích và săn đón. Ông được coi là một nhà chính trị, quân sự, văn học và là một thi nhân vĩ đại trong lịch sử Trung Quốc. Bên cạnh đó ông sở hữu nhiều bài thơ giá trị được mọi người ca tụng. Thơ Tào Tháo biểu hiện phong cách đặc trưng với sự hào sảng tung hoành và bi tráng hào hùng, biểu hiện một cách tập trung tinh thần của thời đại. Thơ ông không chỉ mở ra một thi phong mới cho thời đại Kiến An, mà còn có ảnh hưởng sâu rộng đối với sự phát triển văn học sau này của văn học Trung Quốc. Ngay bây giờ mình cùng nhau cảm nhận chùm thơ hấp dẫn của ông nhé!

Nội Dung

雲行雨步,超越九江之皋。
臨觀異同,心意懷遊豫,不知當復何從?
經過至我碣石,心惆悵我東海。

Bộ xuất Hạ Môn hành kỳ 1 – Diễm

Vân hành vũ bộ, siêu việt cửu giang chi cao.
Lâm quan dị đồng, tâm ý hoài du dự, bất tri đương phục hà tòng?
Kinh quá chí ngã Kiệt Thạch, tâm trù trướng ngã Đông Hải.

東臨碣石,
以觀滄海。
水何澹澹,
山島辣峙。
樹木叢生,
百草豐茂。
秋風蕭瑟,
洪波湧起。
日月之行,
若出其中;
星漢燦爛,
若出其里。
幸甚至哉,
歌以詠志。

Bộ xuất Hạ Môn hành kỳ 2 – Quan thương hải

Đông lâm Kiệt Thạch,
Dĩ quan thương hải.
Thuỷ hà đạm đạm,
Sơn đảo lạt trì.
Thụ mộc tùng sinh,
Bách thảo phong mậu.
Thu phong tiêu sắt,
Hồng ba dũng khởi.
Nhật nguyệt chi hành,
Nhược xuất kỳ trung;
Tinh hán xán lạn,
Nhược xuất kỳ lý.
Hạnh thậm chí tai,
Ca dĩ vịnh chí.

孟冬十月,
北風徘徊,
天氣肅清,
繁霜霏霏。
鶤雞晨鳴,
鴻雁南飛,
鷙鳥潛藏,
熊羆窟息。
錢鎛停置,
農收積場。
逆旅整設,
以通賈商。
幸甚至哉!
歌以詠志。

Bộ xuất Hạ Môn hành kỳ 3 – Đông thập nguyệt

Mạnh đông thập nguyệt,
Bắc phong bồi hồi,
Thiên khí túc thanh,
Phồn sương phi phi.
Vận kê thần minh,
Hồng nhạn nam phi,
Chí điểu tiềm tàng,
Hùng bi quật tức.
Tiền bác đình trí,
Nông thu tích trường.
Nghịch lữ chỉnh thiết,
Dĩ thông cổ thương.
Hạnh thậm chí tai!
Ca dĩ vịnh chí.

鄉土不同,
河朔隆寒。
流澌浮漂,
舟船行難。
錐不入地,
蘴藾深奧。
水竭不流,
冰堅可蹈。
士隱者貧,
勇俠輕非。
心常嘆怨,
戚戚多悲。
幸甚至哉!
歌以詠志。

Bộ xuất Hạ Môn hành kỳ 4 – Thổ bất đồng

Hương thổ bất đồng,
Hà sóc long hàn.
Lưu ty phù phiêu,
Chu thuyền hành nan.
Chuỳ bất nhập địa,
Phong lại thâm áo.
Thuỷ kiệt bất lưu,
Băng kiên khả đạo.
Sĩ ẩn giả bần,
Dũng hiệp khinh phi.
Tâm thường thán oán,
Thích thích đa bi.
Hạnh thậm chí tai!
Ca dĩ vịnh chí.

神龜雖壽,
猶有竟時。
騰蛇乘霧,
終為土灰。
老驥伏櫪,
志在千里;
烈士暮年,
壯心不已。
盈縮之期,
不但在天;
養怡之福,
可得永年。
幸甚至哉!
歌以詠志。

Bộ xuất Hạ Môn hành kỳ 5 – Quy tuy thọ

Thần quy tuy thọ,
Do hữu cánh thì.
Đằng xà thừa vụ,
Chung vi thổ hôi.
Lão ký phục lịch,
Chí tại thiên lý;
Liệt sĩ mộ niên,
Tráng tâm bất dĩ.
Doanh súc chi kỳ,
Bất đãn tại thiên;
Dưỡng di chi phúc,
Khả đắc vĩnh niên.
Hạnh thậm chí tai!
Ca dĩ vịnh chí.

對酒當歌,
人生幾何:
譬如朝露,
去日苦多。
慨當以慷,
憂思難忘。
何以解憂:
惟有杜康。
青青子衿,
悠悠我心。
但為君故,
沉吟至今。
呦呦鹿鳴,
食野之苹。
我有嘉賓,
鼓瑟吹笙。
皎皎如月,
何時可輟?
憂從中來,
不可斷絕。
越陌度阡,
枉用相存。
契闊談宴,
心念舊恩。
月明星稀,
烏鵲南飛,
繞樹三匝,
無枝可依。
山不厭高,
水不厭深。
周公吐哺,
天下歸心。

Đoản ca hành kỳ 2

Đối tửu đương ca,
Nhân sinh kỷ hà:
Thí như triêu lộ,
Khứ nhật khổ đa.
Khái đương dĩ khảng,
Ưu tư nan vong.
Hà dĩ giải ưu:
Duy hữu Đỗ Khang.
Thanh thanh tử khâm,
Du du ngã tâm.
Đãn vị quân cố,
Trầm ngâm chí kim.
U u lộc minh,
Thực dã chi bình.
Ngã hữu gia tân,
Cổ sắt xuy sinh.
Hạo hạo như nguyệt,
Hà thời khả chuyết?
Ưu tòng trung lai,
Bất khả đoạn tuyệt.
Việt mạch độ thiên,
Uổng dụng tương tồn.
Khế khoát đàm yến,
Tâm niệm cựu ân.
Nguyệt minh tinh hy,
Ô thước nam phi,
Nhiễu thụ tam tạp,
Vô chi khả y.
Sơn bất yếm cao,
Thuỷ bất yếm thâm.
Chu Công thổ bộ,
Thiên hạ quy tâm.

Dịch nghĩa

Trước chén rượu nên hát ca,
Bởi vì đời người có được bao lâu,
Tựa như sương sớm,
Những ngày đã qua sầu khổ biết bao nhiêu.
Khẳng khái phấn chấn
Nhưng vẫn không quên được nỗi ưu sầu.
Muốn giải sầu
Chỉ có chén rượu (Đỗ Khang).
Tuổi học trò cổ áo xanh,
Rầu rầu lòng ta.
Chính vì mi
Mà ta trầm ngâm cho đến hôm nay.
Tiếng tác tác hươi kêu,
Nó đang ăn cỏ ngoài đồng.
Ta có khách quý
Đàn ca sáo phách.
Trăng sáng vằng vặc,
Bao giờ mới hết?
Nỗi buồn từ trong lòng,
Không thể nào dứt.
Từng băng đồng vượt khắp nẻo đường,
Dày công tận tình thăm hỏi.
Những lần gặp gỡ trò chuyện,
Cùng nhau ôn lại, trong lòng vẫn nhớ ân nghĩa cũ.
Trăng sáng sao thưa,
Quạ bay về nam.
Liệng quanh cây cao ba vòng,
Không cành nào đậu được.
Núi không ngại cao,
Sông không ngại sâu,
Ta giống như Chu công tiếp đãi hiền tài,
Thiên hạ sẽ quy thuận về ta.

天地間,
人為貴。
立君牧民,
為之軌則。
車轍馬跡,
經緯四極。
黜陟幽明,
黎庶繁息。
於鑠賢聖,
總統邦域。
封建五爵,
井田刑獄。
有燔丹書,
無普赦贖。
皋陶甫侯,
何有失職。
嗟哉後世,
改制易律。
勞民為君,
役賦其力。
舜漆食器,
畔者十國。
不及唐堯,
采椽不斫。
世嘆伯夷,
欲以厲俗。
侈惡之大,
儉為共德。
許由推讓,
豈有訟曲?
兼愛尚同,
疏者為戚。

Độ quan san

Thiên địa gian,
Nhân vi quý.
Lập quân mục dân,
Vị chi quỹ tắc.
Xa triệt mã tích,
Kinh vĩ tứ cực.
Truất trắc u minh,
Lê thứ phồn tức.
Ư thước hiền thánh,
Tổng thống bang vực.
Phong kiến ngũ tước,
Tỉnh điền, hình ngục.
Hữu phần đan thư,
Vô phổ xá thục.
Cao Đào phủ hầu,
Hà hữu thất chức.
Ta tai hậu thế,
Cải chế dịch luật.
Lao dân vị quân,
Dịch phú kỳ lực.
Thuấn tất thực khí,
Bạn giả thập quốc.
Bất cập Đường Nghiêu,
Thái chuyên bất chước.
Thế thán Bá Di,
Dục dĩ lệ tục.
Xỉ ác chi đại,
Kiệm vi cộng đức.
Hứa Do thôi nhượng,
Khởi hữu tụng khúc?
Kiêm ái, thượng đồng,
Sơ giả vi thích.

對酒歌,
太平時,
吏不呼門。
王者賢且明,
宰相股肱皆忠良。
咸禮讓,
民無所爭訟。
三年耕有九年儲,
倉谷滿盈。
斑白不負載。
雨澤如此,
百谷用成。
卻走馬,
以糞其土田。
爵公侯伯子男,
咸愛其民,
以黜陟幽明。
子養有若父與兄。
犯禮法,
輕重隨其刑。
路無拾遺之私。
囹圄空虛,
冬節不斷。
人耄耋,
皆得以壽終。
恩德廣及草木昆虫。

Đối tửu ca

Đối tửu ca,
Thái bình thì,
Lại bất hô môn.
Vương giả hiền thả minh,
Tể tướng cổ quăng giai trung lương.
Hàm lễ nhượng,
Dân vô sở tranh tụng.
Tam niên canh hữu cửu niên trừ,
Thương cốc mãn doanh.
Ban bạch bất phụ tải.
Vũ trạch như thử,
Bách cốc dụng thành.
Khước tẩu mã,
Dĩ phân kỳ thổ điền.
Tước công hầu bá tử nam,
Hàm ái kỳ dân,
Dĩ truất trắc u minh.
Tử dưỡng hữu nhược phụ dữ huynh.
Phạm lễ pháp,
Khinh trọng tuỳ kỳ hình.
Lộ vô thập di chi tư.
Linh ngữ không hư,
Đông tiết bất đoán.
Nhân mạo điệt,
Giai đắc dĩ thọ chung.
Ân đức quảng cập thảo mộc côn trùng.

惟漢廿二世,
所任誠不良。
沐猴而冠帶,
知小而謀強。
猶豫不敢斷,
因狩執君王。
白虹為貫日,
己亦先受殃。
賊臣持國柄,
殺主滅宇京。
蕩覆帝基業,
宗廟以燔喪。
播越西遷移,
號泣而且行。
瞻彼洛城郭,
微子為悲傷。

Giới lộ hành

Duy Hán chấp nhị thế,
Sở nhậm thành bất lương.
Mộc hầu nhi quan đới,
Tri tiểu nhi mưu cường.
Do dự bất cảm đoán,
Nhân thú chấp quân vương.
Bạch hồng vi quán nhật,
Kỷ diệc tiên thụ ương.
Tặc thần trì quốc bính,
Sát chúa diệt vũ kinh.
Đãng phúc đế cơ nghiệp,
Tông miếu dĩ phần tang (táng).
Bá việt tây thiên di,
Hiệu khấp nhi thả hành.
Chiêm bỉ Lạc thành quách,
Vi Tử vi bi thương.

Dịch nghĩa

Đời thứ hăm hai nhà Hán,
Kẻ nhậm chức thật bất tài.
(Chỉ như) khỉ đội mũ,
Biết ít lại tính mưu to.
Do dự không dám quyết,
(Nên bọn Trương Nhượng) giữ vua để thoát ra ngoài.
Cầu vồng màu trắng che khuất mặt trời (ý nói có biến loạn lớn),
Thân mình (chỉ Hà Tiến) cũng chuốc lấy tai ương trước khi tiến hành.
Kẻ tặc thần nắm giữ quyền bính,
Giết vua, thiêu cháy kinh thành.
Cơ nghiệp đế vương bị lật đổ,
Tông miếu bị đốt cháy, chôn vùi.
Di dời về phía tây,
Khóc lóc dắt nhau đi.
Ngẩng nhìn thành quách Lạc Dương kia,
Bi thương giống như Vi Tử.

關東有義士,
興兵討群凶。
初期會孟津,
乃心在咸陽。
軍合力不齊,
躊躇而雁行。
勢利使人爭,
嗣還自相戕。
淮南弟稱號,
刻璽於北方。
鎧甲生蟣蝨,
萬姓以死亡。
白骨露於野,
千里無雞鳴。
生民百遺一,
念之人斷腸。

Hao Lý hành

Quan Đông hữu nghĩa sĩ,
Hưng binh thảo quần hung.
Sơ kỳ hội Mạnh Tân,
Nãi tâm tại Hàm Dương.
Quân hợp lực bất tề,
Trù trừ nhi nhạn hàng.
Thế lợi sử nhân tranh,
Tự hoàn tự tương tường.
Hoài Nam đệ xưng hiệu,
Khắc tỷ ư bắc phương.
Khải giáp sinh kỷ sắt,
Vạn tính dĩ tử vong.
Bạch cốt lộ ư dã,
Thiên lý vô kê minh.
Sinh dân bách di nhất,
Niệm chi nhân đoạn trường.

北上太行山,
艱哉何巍巍!
羊腸阪詰屈,
車輪為之摧。
樹木何蕭瑟,
北風聲正悲!
熊羆對我蹲,
虎豹夾路啼。
溪谷少人民,
雪落何霏霏!
延頸長嘆息,
遠行多所懷。
我心何怫郁?
思欲一東歸。
水深橋梁絕,
中路正徘徊。
迷惑失故路,
薄暮無宿棲。
行行日已遠,
人馬同時饑。
擔囊行取薪,
斧冰持作糜。
悲彼《東山》詩,
悠悠令我哀。

Khổ hàn hành

Bắc thượng Thái Hàng sơn,
Gian tai hà nguy nguy!
Dương trường bang cật quật.
Xa luân vị chi tồi,
Thụ mộc hà tiêu sắt!
Bắc phong thanh chính bi.
Hùng bi đối ngã tôn,
Hổ báo hiệp lộ đề.
Khê cốc thiểu nhân dân,
Tuyết lạc hà phi phi.
Diên canh trường thán tức,
Viễn hành đa sở hoài.
Ngã tâm hà phẫn uất?
Tứ dục nhất đông quy.
Thuỷ thâm kiều lương tuyệt,
Trung lộ chính bồi hồi.
Mê hoặc thất có lộ,
Bạc mộ vô túc lâu.
Hành hành nhật dĩ viễn,
Nhân mã đồng thời cơ.
Đảm nang hành thủ tân,
Phủ băng trì tác my.
Bi bỉ “Đông Sơn” thi,
Du du linh ngã ai!

Dịch nghĩa

Xuôi miền bắc vượt lên núi Thái Hàng
Cao chót vót thật là gian nguy!
Đường đi trên dốc núi quanh co như ruột dê
Bánh xe muốn gãy đổ
Cây cối hiu hắt buồn bã làm sao!
Nghe gió bắc thổi thật sầu não
Beo gấu ngồi xổm trước mặt
Hổ báo kêu gào ở giữa đường
Khe vực không có người dân nào ở
Mưa tuyết rơi mịt mù
Dài cổ kêu than cực khổ
Viễn chinh chất ngất nhiều nỗi
Tâm can u uất nghẹn ngào
Muốn trở về miền đông ngay
Nước sâu cầu lại gãy
Đường chính đi quanh co
Mê hoặc lạc mất đường
Trời chiều không biết ở lại đâu
Ngày ngày đi mãi xa xôi ròng rã
Người ngựa đói meo
Lấy đòn gánh làm củi
Đập băng để nấu cháo ăn
Bi phẫn quá làm thơ Đông Sơn
Nỗi buồn này dài dằng dặc!

鴻雁出塞北,
乃在無人鄉。
舉翅萬餘里,
行止自成行。
冬節食南稻,
春日復北翔。
田中有轉蓬,
隨風遠飄揚。
長與故根絕,
萬歲不相當。
奈何此征夫,
安得驅四方!
戎馬不解鞍,
鎧甲不离傍。
冉冉老將至,
何時返故鄉?
神龍藏深泉,
猛獸步高岡。
狐死歸首丘,
故鄉安可忘!

Khước đông tây môn hành

Hồng nhạn xuất tái bắc,
Nãi tại vô nhân hương.
Cử sí vạn dư lý,
Hành chỉ tự thành hàng.
Đông tiết thực nam đạo,
Xuân nhật phục bắc tường.
Điền trung hữu chuyển bồng,
Tuỳ phong viễn phiêu dương.
Trưởng dữ cố căn tuyệt,
Vạn tuế bất tương đương.
Nại hà thử chinh phu,
An đắc khu tứ phương!
Nhung mã bất giải yên,
Khải giáp bất ly bàng.
Nhiễm nhiễm lão tương chí,
Hà thì phản cố hương?
Thần long tàng thâm tuyền,
Mãnh thú bộ cao cương.
Hồ tử quy thủ khâu,
Cố hương an khả vong!

駕虹蜺,
乘赤雲,
登彼九疑歷玉門。
濟天漢,
至崑崙,
見西王母謁東君。
交赤松,
及羨門,
受要秘道愛精神。
食芝英,
飲醴泉,
柱杖桂枝佩秋蘭。
絕人事,
遊渾元,
若疾風遊欻翩翩。
景未移,
行數千,
壽如南山不忘愆。

Mạch thượng tang

Giá hồng nghê,
Thừa xích vân,
Đăng bỉ Cửu Nghi, lịch Ngọc Môn.
Tế Thiên Hán,
Chí Côn Lôn,
Kiến Tây Vương Mẫu, yết Đông Quân.
Giao Xích Tùng,
Cập Tiện Môn,
Thụ yếu bí đạo ái tinh thần.
Thực chi anh,
Ẩm lễ tuyền,
Trụ trượng quế chi, bội thu lan.
Tuyệt nhân sự,
Du hỗn nguyên,
Nhược tật phong du, hốt phiên phiên.
Cảnh vị di,
Hành sổ thiên,
Thọ như Nam sơn, bất vong khiên.

自惜身薄祜,
夙賤罹孤苦。
既無三徙教,
不聞過庭語。
其窮如抽裂,
自以思所怙。
雖懷一介志,
是時其能與!
守窮者貧賤,
惋嘆淚如雨。
泣涕於悲夫,
乞活安能睹?
我願於天窮,
琅邪傾側左。
雖欲竭忠誠,
欣公歸其楚。
快人由為嘆,
抱情不得敘。
顯行天教人,
誰知莫不緒。
我願何時隨?
此嘆亦難處。
今我將何照於光曜?
釋銜不如雨。

Thiện tai hành kỳ 2

Tự tích thân bạc hỗ,
Túc tiện ly cô khổ.
Ký vô tam tỉ giáo,
Bất văn quá đình ngữ.
Kỳ cùng như trừu liệt,
Tự dĩ tư sở hỗ.
Tuy hoài nhất giới chí,
Thị thời kỳ năng dữ!
Thủ cùng giả bần tiện,
Uyển thán lệ như vũ.
Khấp thế ư bi phu,
Khất hoạt an năng đổ?
Ngã nguyện ư thiên cùng,
Lang Nha khuynh trắc tả.
Tuy dục kiệt trung thành,
Hân công quy kỳ sở.
Khoái nhân do vi thán,
Bão tình bất đắc tự.
Hiển hành thiên giáo nhân,
Thuỳ tri mạc bất tự.
Ngã nguyện hà thời tuỳ?
Thử thán diệc nan xử.
Kim ngã tương hà chiếu vu quang diệu?
Thích hàm bất như vũ.

Chùm thơ của Tào Tháo mang giọng điệu hào hùng cùng những triết lý cao cả. Quyền lực chính trị và tài năng thơ ca, hai yếu tố này đã đưa Tào Tháo lên địa vị lãnh tụ thi đàn Kiến An. Thông qua việc miêu tả một cách mới mẻ và chân thực sự tao loạn của thời đại, những tác phẩm này cũng đồng thời bộc lộ tình cảm ưu thời mẫn thế của nhà thơ . Cảm ơn các bạn đã theo dõi bài viết này của chúng tôi!

Related posts

Tuyển tập những câu thơ hay về tình yêu ngắn gọn, lãng mạn nhất

admin

Bài thơ Ký ức những ngày xưa – Nhà thơ Nguyễn Đình Huân

admin

Bài thơ Đời Của Ngoại – Nhà thơ Phú Sĩ

admin

Leave a Comment