Thơ Hay

Tuyển tập những bài thơ Puskin đi cùng năm tháng phần 6

Với ngòi bút tài hoa và uyên bác mà những bài thơ Puskin luôn được độc giả đón nhận nồng nhiệt gây nên tiếng vang lớn trong nền văn học nước Nga. Với một số lượng thơ đồ sộ ông đóng một phần không nhỏ cho nền văn học nước nhà. Cùng nhau theo dõi những bài thơ của ông ngay nhé!

Nội Dung

Всё в ней гармония, всё диво,    
Всё выше мира и страстей;         
Она покоится стыдливо               
В красе торжественной своей;    
Она кругом себя взирает:            
Ей нет соперниц, нет подруг;
Красавиц наших бледный круг    
В ее сияньи исчезает.                  

Куда бы ты ни поспешал,            
Хоть на любовное свиданье,      
Какое б в сердце ни питал         
Ты сокровенное мечтанье,-               
Но встретясь с ней, смущенный, ты  
Вдруг остановишься невольно,         
Благоговея богомольно                      
Перед святыней красоты.
 
Dịch nghĩa
Tất cả ở cô ta hài hòa, tất cả tuyệt diệu,
Tất cả vượt trội thế gian và những mê say ;
Cô ta  bình thản (ra vẻ) thẹn thùng (e lệ) 
Trong dung nhan trịnh trọng của mình;
Cô ta nhìn ngó xung quanh mình:
Cô ta không có đối thủ, không có bạn gái;
Cả một vòng (dãy) người đẹp của chúng ta mờ nhạt
Biến mất trong ánh hào quang của cô ta.

Dù bạn vội vàng đi đâu,
Ngay cả khi gặp gỡ tình đầu,
Dù bạn ấp ủ trong tim
Niềm mơ ước thầm kín nào đó, –
Nhưng khi gặp nàng, bạn cũng bị lúng túng (bối rối),
Đột nhiên bạn sẽ dừng ngay lại, 
Dù có tôn sùng sự mến yêu vô hạn
Trước báu vật (vật thiêng liêng)của sắc đẹp.

Не пой, красавица, при мне
Ты песен Грузии печальной:
Напоминают мне оне
Другую жизнь и берег дальный.

Увы! напоминают мне
Твои жестокие напевы
И степь, и ночь – и при луне
Черты далекой, бедной девы!..

Я призрак милый, роковой,
Тебя увидев, забываю;
Но ты поешь – и предо мной
Его я вновь воображаю.

Не пой, красавица, при мне
Ты песен Грузии печальной:
Напоминают мне оне
Другую жизнь и берег дальный.

Dịch

Người đẹp ơi! Nàng đừng hát nữa
Những bài Gruzi buồn bã xót xa:
Khiến lòng tôi lại càng tưởng nhớ
Cuộc đời xưa và một bến bờ xa.
Ôi khúc ca tàn bạo của nàng
Làm tôi càng thêm nhớ lại
Chốn thảo nguyên đêm tối dưới trăng
Hình bóng người trinh nữ xa xăm, đầy thương hại.
Bao hình ảnh không phai mờ, êm ái
Giáp mặt nàng tôi đã quên đi
Nhưng nàng hát – trước mắt tôi đã lại
Biết bao nhiêu bóng dáng hiện về.
Người đẹp ơi! Nàng đừng hát nữa
Những bài Gruzi buồn bã xót xa:
Khiến lòng tôi lại càng tưởng nhớ
Cuộc đời xưa và một bến bờ xa.

Свободы сеятель пустынный,
Я вышел рано, до звезды;
Рукою чистой и безвинной
В порабощенные бразды
Бросал живительное семя —
Но потерял я только время,
Благие мысли и труды… 
Паситесь, мирные народы!
Вас не разбудит чести клич.
К чему стадам дары свободы?
Их должно резать или стричь.
Наследство их из рода в роды
Ярмо с гремушками да бич.

Dịch

Là người gieo giống tự do trên đồng vắng
Tôi ra đi từ sáng sớm tinh mơ
Bàn tay tôi trong trẻo ngây thơ
Gieo mầm sống trên luống cày nô dịch
Nhưng tôi chỉ phí thời gian vô ích
Cả tư tưởng và việc làm thiện chí của tôi
Nhân danh than bình, cứ gậm cỏ đi thôi!
Tiếng vinh dự không thể làm tỉnh giấc
Tự do đâu cho một bầy súc vật?
Chúng chỉ cần cắt xẻo, cạo lông
Đời nối đời, di sản chúng nó chung
Là ách nặng đeo chuông và roi vọt.

Сижу за решеткой в темнице сырой.
Вскормленный в неволе орел молодой,
Мой грустный товарищ, махая крылом,
Кровавую пищу клюет под окном,
Клюет, и бросает, и смотрит в окно,
Как будто со мною задумал одно.
Зовет меня взглядом и криком своим
И вымолвить хочет: «Давай улетим!
Мы вольные птицы; пора, брат, пора!
Туда, где за тучей белеет гора,
Туда, где синеют морские края,
Туда, где гуляем лишь ветер… да я!…»

Dịch

Tôi ngồi sau chấn song ngục lạnh
Chú đại bàng non trẻ trong lồng
Bên cửa sổ anh bạn buồn chớp cánh
Rỉa miếng mồi thịt máu đỏ loang
Rỉa, rồi bỏ, rồi nhìn qua ô cửa
Như cùng tôi chung một tâm tư
Và ánh mắt, và tiếng kêu giục giã
Như cùng tôi muốn nhủ: “Ta bay đi!
Bay, bay đi, ta loài chim tự do!
Bay về miền núi ngời sau mây xám
Bay về vùng nước biển xanh phẳng lặng
Bay về nơi chỉ có gió… và ta…!”

Пока не требует поэта
К священной жертве Аполлон,
В заботах суетного света
Он малодушно погружен;
Молчит его святая лира;
Душа вкушает хладный сон,
И меж детей ничтожных мира,
Быть может, всех ничтожней он.
Но лишь божественный глагол
До слуха чуткого коснется,
Душа поэта встрепенется,
Как пробудившийся орел.
Тоскует он в забавах мира,
Людской чуждается молвы,
К ногам народного кумира
Не клонит гордой головы;
Бежит он, дикий и суровый,
И звуков и смятенья полн,
На берега пустынных волн,
В широкошумные дубровы…

Dịch

Khi thần Apollon còn chưa đòi hỏi
Sự hy sinh cao cả của nhà thơ,
Đắm chìm trong bao tất bật ưu lo
Chàng thi sĩ đớn hèn im tiếng hát
Đàn lia thiêng tiếng tơ lặng ngắt
Hồn âm thầm gặm nhấm giấc mơ con
Giữa bao nhiêu kẻ vô dụng cõi trần
Chàng có lẽ là người vô dụng nhất.
Nhưng khi nghe tiếng thần thánh vang rền
Vọng thính giác tinh anh chàng thi sĩ,
Hồn bừng tỉnh khỏi cơn mộng mị
Như đại bàng thức dậy chốn non cao,
Ngắm trò vui trần giới thấy buồn sao
Và xa lánh những thị phi miệng thế,
Và ngẩng cao mái đầu ngạo nghễ
Trước quyền uy thần tượng của nhân quần,
Chàng phóng đi, hoang dã, kiêu hùng,
Mang âm thanh và tinh thần phản kháng
Đến những bãi bờ hoang sóng vắng
Đến bao la náo động rừng sồi.

Дар напрасный, дар случайный,
Жизнь, зачем ты мне дана?
Иль зачем судьбою тайной
Ты на казнь осуждена?

Кто меня враждебной властью
Из ничтожества воззвал,
Душу мне наполнил страстью
Ум сомненьем взволновал?

Цели нет передо мною:
Сердце пусто, празден ум,
И томит меня тоскою
Однозвучный жизни шум.

Dịch

Như món quà ngẫu nhiên phù phiếm
Tôi được trao cuộc sống làm gì?
Sao số phận phũ phàng bí hiểm
Bắt con người phải chết, mang đi?
Ai đã dùng quyền danh độc ác
Dựng tôi lên từ cái thấp hèn
Làm óc tôi suốt đời nghi hoặc
Làm tâm hồn xúc động triền miên?
Không mục đích, sống mòn, vô vị
Trái tim tôi trống rỗng, u sầu
Và cuộc đời nhố nhăng ồn ĩ
Làm tôi buồn, cô đơn và đau.

Ура! в Россию скачет
Кочующий деспот.
Спаситель горько плачет,
За ним и весь народ.
Мария в хлопотах Спасителя стращает:
«Не плачь, дитя, не плачь, сударь:
Вот бука, бука — русский царь!»
Царь входит и вещает:
«Узнай, народ российский,
Что знает целый мир:
И прусский и австрийский
Я сшил себе мундир.
О радуйся, народ: я сыт, здоров и тучен;
Меня газетчик прославлял;
Я пил, и ел, и обещал —
И делом не замучен.
Послушайте в прибавку,
Что сделаю потом:
Лаврову дам отставку,
А Соца — в желтый дом;
Закон постановлю на место вам Горголи,
И людям я права людей,
По царской милости моей,
Отдам из доброй воли».
От радости в постеле
Запрыгало дитя:
«Неужто в самом деле?
Неужто не шутя?»
А мать ему: «Бай-бай! закрой свои ты глазки;
Пора уснуть уж наконец,
Послушавши, как царь-отец
Рассказывает сказки».

Dịch

Hoan hô! Nhà độc tài du đãng
Cưỡi ngựa phi nhanh về nước Nga
Đấng cứu thế khóc ré lên thê thảm
Cả nhân dân theo Chúa khóc òa
Mẹ Maria vội ôm Người nựng nạt:
“Đừng khóc, con, đừng khóc, thiên thần:
Ngáo ộp này – vua Nga – ngáo ộp!”
Vua bước ra dõng dạc truyền rằng
“Hỡi nhân dân của cả nước Nga
Hãy biết rằng toàn thế giới đã biết:
Ta đã may chiến phục cho ta
Theo kiểu nước Áo, theo kiểu Đức
Hãy vui lên, dân chúng, hãy vui lên
Ta no, ta khỏe, ta béo tròn
Bọn viết báo ngợi ca ta trên báo
Ta uống, ta ăn, ta hứa hão
Và việc công ta chẳng nhọc nhằn
Hỡi nhân dân, hãy biết thêm rằng
Rồi mai kia ta còn quyết định
Đưa tên Laprôp về hưu
Tống cổ tên Xôt đi chữa bệnh
Thay tên Gotgon bằng luật hình
Và rủ lòng từ bi của kẻ quyền binh
Cho con người quyền của chính mình
Đứa bé vui sướng quá
Bỗng nhẩy cẫng trên giường
“Điều đó có thực chăng,
không đùa, chứ mẹ?”
Bà mẹ vỗ về bé:
“À ơi, nhắm mắt đi
Được vua kể cho nghe
Chuyện thần thoại hay tuyệt
Thôi ngủ đi, ngủ đi!”

Мчатся тучи, вьются тучи;
Невидимкою луна
Освещает снег летучий;
Мутно небо, ночь мутна.
Еду, еду в чистом поле;
Колокольчик дин-дин-дин…
Страшно, страшно поневоле
Средь неведомых равнин!
“Эй, пошел, ямщик!..” – “Нет мочи:
Коням, барин, тяжело;
Вьюга мне слипает очи;
Все дороги занесло;
Хоть убей, следа не видно;
Сбились мы. Что делать нам!
В поле бес нас водит, видно,
Да кружит по сторонам.
Посмотри: вон, вон играет,
Дует, плюет на меня;
Вон – теперь в овраг толкает
Одичалого коня;
Там верстою небывалой
Он торчал передо мной;
Там сверкнул он искрой малой
И пропал во тьме пустой”.
Мчатся тучи, вьются тучи;
Невидимкою луна
Освещает снег летучий;
Мутно небо, ночь мутна.
Сил нам нет кружиться доле;
Колокольчик вдруг умолк;
Кони стали… “Что там в поле?” –
“Кто их знает? пень иль волк?”
Вьюга злится, вьюга плачет;
Кони чуткие храпят;
Вот уж он далече скачет;
Лишь глаза во мгле горят;
Кони снова понеслися;
Колокольчик дин-дин-дин…
Вижу: духи собралися
Средь белеющих равнин.
Бесконечны, безобразны,
В мутной месяца игре
Закружились бесы разны,
Будто листья в ноябре…
Сколько их! куда их гонят?
Что так жалобно поют?
Домового ли хоронят,
Ведьму ль замуж выдают?
Мчатся тучи, вьются тучи;
Невидимкою луна
Освещает снег летучий;
Мутно небо, ночь мутна.
Мчатся бесы рой за роем
В беспредельной вышине,
Визгом жалобным и воем
Надрывая сердце мне

Dịch

Mây vần vụ đầy trời;
Khuất mây, ánh trăng soi
Nhờ nhờ trên thảm tuyết;
Đêm mờ mờ, rét mướt.
Xe bon trên đồng hoang,
Nhạc ngựa reng-reng-reng…
Không dưng lòng sợ hãi
Giữa cánh đồng chưa quen!
Đi thôi, bác xà ích!
Ngựa mệt nhoài, thưa ông,
Mắt tôi cũng tịt mít
Trong bão giông và tuyết
Tràn ngập mọi nẻo đường,
Xe chệch hướng. Trên đồng
Như có quỷ dẫn lối,
Rắp tâm đưa lòng vòng.
Kìa, nhìn xem, chúng đang
Khạc nhổ vào tôi đấy,
Giờ lại gắng xô đẩy
Cho ngựa sụt hố lầy;
Chúng nhô trước tôi đây
Như mốc đường lạ lẫm,
Mắt lập loè sáng lạnh
Rồi biến trong màn đêm.
Đầy trời mây vần vụ;
Mây che mờ ánh trăng;
Cánh đồng hoang tuyết phủ
Dưới trăng càng mênh mang.
Sức chúng tôi đã kiệt,
Tiếng nhạc cũng thốt dừng,
Ngựa khựng… – Kìa trên đồng,
Gốc cây hay sói đó?
Bão khóc than, giận dữ;
Ngựa thính thở phì phò;
Lũ quỷ đã lảng xa
Riêng mắt còn ánh lửa;
Ngựa lại bước tong tả;
Tiếng nhạc reng-reng-reng…
Tôi thấy quỷ quần tụ
Trắng nhợt nhoà đồng hoang.
Chúng quay cuồng, bất tận,
Xấu xí, chẳng giống nhau,
Như lá cây tháng một,
Dưới ánh trăng đục ngàu…
Chúng bị đuổi đi đâu?
Cớ sao kêu thảm thiết?
Hay chúng chôn ma chết?
Hay phù thuỷ cưới chồng?
Đầy trời mây vần vụ;
Mây che mờ ánh trăng;
Cánh đồng hoang tuyết phủ
Dưới trăng càng mênh mang.
Lũ quỷ chạy từng đàn
Trên khoảng không vô tận,
Tiếng kêu réo não nùng
Xé tim tôi cô quạnh…

Мне не спится, нет огня;
Всюду мрак и сон докучный.
Ход часов лишь однозвучный
Раздается близ меня,
Парки бабье лепетанье,
Спящей ночи трепетанье,
Жизни мышья беготня…
Что тревожишь ты меня?
Что ты значишь, скучный шепот?
Укоризна или ропот
Мной утраченного дня?
От меня чего ты хочешь?
Ты зовешь или пророчишь?
Я понять тебя хочу,
Смысла я в тебе ищу…

Dịch

Tôi thao thức, nến đèn tắt cả;
Mộng buồn tênh, tăm tối khắp nơi
Chỉ có tiếng đồng hồ cô lẻ
Vẳng đều đều bên cạnh giường tôi.
Tiếng chuyện phiếm các nàng tiên nữ,
Tiếng bước đời chuột xám chạy qua
Tiếng xao xuyến đêm dài thiếp ngủ…
Cớ sao ngươi day dứt lòng ta,
Có nghĩa gì tiếng thì thào tẻ ngắt ?
Lời than vãn hay là lời trách móc
Của một ngày ta đã bỏ trôi qua ?
Hay là ngươi muốn đòi hỏi gì ta
Ngươi gọi ta hay là ngươi báo mệnh ?
Ta muốn hiểu được ngươi cho tường tận,
Ta muốn dò tìm ý nghĩ trong ngươi…

Злое дитя,
Старик молодой,
Властелин добронравный,
Гордость внушающий нам,
Шумный заступник любви!

Dịch nghĩa

Những đứa trẻ thành dữ tợn,
Những người già trẻ ra,
Lãnh chúa thành tốt bụng.
Niềm tự hào khêu gợi chúng ta,
Hãy là người sôi nổi bảo vệ tự do!

Безумных лет угасшее веселье
Мне тяжело, как смутное похмелье.
Но, как вино — печаль минувших дней
В моей душе чем старе, тем сильней.
Мой путь уныл. Сулит мне труд и горе
Грядущего волнуемое море.
Но не хочу, о други, умирать;
Я жить хочу, чтоб мыслить и страдать;
И ведаю, мне будут наслажденья
Меж горестей, забот и треволненья:
Порой опять гармонией упьюсь,
Над вымыслом слезами обольюсь,
И может быть — на мой закат печальный
Блеснет любовь улыбкою прощальной.

Dịch

Niềm vui tắt của những năm điên dại
Tôi nặng nề nhớ lại, như men rượu ảo mờ…
Như nỗi buồn những ngày đã trôi qua
Càng nung nấu, ngày càng thêm mạnh sức
Đường đời tôi ảm đạm – Biển xao xuyến tương lai
Đêm cho tôi bận bịu với ai hoài
Nhưng tôi không muốn chết, các bạn ơi
Tôi muốn sống để nghĩ suy và đau khổ
Và tôi biết giữa xót xa tột độ
Giữa lo âu và hồi hộp, tôi sẽ được sướng vui:
Lại có lúc tôi uống say những âm điệu bồi hồi
Tôi sẽ lại tràn trề nước mắt trên những hình tượng sinh sôi
Và có thể, vào lúc hoàng hôn buồn thảm của tôi
Tình yêu lại sáng ngời một nụ cười tạm biệt

Блеща средь полей широких,
Вон он льется!.. Здравствуй, Дон!
От сынов твоих далеких
Я привез тебе поклон.
Как прославленного брата,
Реки знают тихий Дон;
От Аракса и Евфрата
Я привез тебе поклон.
Отдохнув от злой погони,
Чуя родину свою,
Пьют уже донские кони
Арпачайскую струю.
Приготовь же, Дон заветный,
Для наездников лихих
Сок кипучий, искрометный
Виноградников твоих.

Dịch

Ngời lấp loáng giữa đồng mênh mông
Kìa dòng chảy !.. Xin chào, sông Đông!
Từ chốn ngụ cháu con ngươi tít tắp
Ta đến đây ngả mũ xin chào.
Khắp nguồn sông ai mà chẳng biết,
Đông êm đềm là anh cả uy danh;
Từ Arắcx và Ơphrát
Ta đến đây ngả mũ xin chào.
Tung bờm gió những con tuấn mã,
Về nghỉ chân sau cuộc đua tranh
Uống dòng chảy Arpatrat,
Hít hương nồng vị đất thân quen.
Nào xắng xở, nào Đông yêu quý,
Thết các chàng kị sĩ oai phong
Men sủi bọt tan như nghiền nát
Cất từ đồng nho rộng mênh mông.

Художник-варвар кистью сонной
Картину гения чернит
И свой рисунок беззаконный
Над ней бессмысленно чертит.

Но краски чуждые, с летами,
Спадают ветхой чешуей;
Созданье гения пред нами
Выходит с прежней красотой.

Так исчезают заблужденья
С измученной души моей,
И возникают в ней виденья
Первоначальных, чистых дней.

Dịch

Một hoạ-sĩ-dã-man cầm cây cọ ngái ngủ
Xoá bức tranh của hoạ sĩ tài danh
Rồi sau đó vẽ lên bừa phứa
Bức tranh vô nghĩa của mình
Nhưng màu sắc lạ theo năm tháng
Cứ bong dần thành vẩy, rụng tả tơi;
Và bức vẽ của thiên tài thuở trước
Lại hiện ra vẻ đẹp ngời ngời.
Rồi sẽ tiêu tan mọi điều lầm tưởng
Trong tâm hồn quá mệt mỏi của tôi
Thay vào đó sẽ hiện lên hình ảnh
Của những ngày đầu trong trắng đẹp tươi.

Avez-vous vu la tendre rose,
L’aimable fille d’un beau jour,
Quand au printemps à peine éclose,
Elle est l’image de l’amour ?
Telle à nos yeux, plus belle encore,
Parut Eudoxie aujourd’hui :
Plus d’un printemps la vit éclore,
Charmante et jeune comme lui.
Mais, hélas ! les vents, les tempêtes
Ces fougueux enfants de l’hiver,
Bientôt vont gronder sur nos têtes,
Enchaîner l’eau, la terre et l’air.
Et plus de fleurs et plus de rose,
L’aimable fille des amours
Tombe fanée, à peine éclose :
Il a fui, le temps des beaux jours !
Eudoxie, aimez ! Le temps presse ;
Profitez de vos jours heureux
Est-ce dans la froide vieillesse
Que de l’amour on sent les feux !

Dịch

Đóa hồng bạn thấy thơ ngây
Như em gái đẹp trong ngày thắm tươi
Xuân sang mới nở nụ cười
Em là hình ảnh tình ai rạng ngời ?
Như vầy đẹp nhất mắt ai
Ơ-đô-xi đó hôm nay xuất thần
Ngắm em hơn cả ngày xuân
Đáng yêu, tươi trẻ muôn phần đẹp xinh.
Chao ôi! gió bão thấy không
Hung hăng bọn trẻ mùa đông dãi dầu
Ào ào gió thổi trên đầu
Phủ che nước, đất, cả bầu không gian.
Hơn hoa, hơn cả đóa hồng
Em xinh, duyên dáng thắm nồng tình ta
Úa tàn vừa mới lộ ra
Thời gian đẹp đẽ đã qua tháng ngày!
Thời gian gấp gáp, hãy yêu
Ơ-đô-xi nhé! hưởng nhiều ngày vui
Tuổi già lãnh lẽo biết ai
Tình yêu nhóm lửa những giây mặn nồng!

Одна свеча избу лишь слабо освещала,
Зажгли другую — что ж? Изба светлее стала.
Правдивы древнего речения слова:
Ум хорошо, а лучше два.

Dịch

Một ngọn nến thắp trong nhà mờ tối,
Thắp thêm ngọn thứ hai, căn nhà sẽ sáng hơn
Đúng như lời người xưa đã nói:
Một trí khôn thì tốt, nhưng hai sẽ tốt hơn.

Город пышный, город бедный,
Дух неволи, стройный вид,
Свод небес зелено-бледный,
Скука, холод и гранит —
Всё же мне вас жаль немножко,
Потому что здесь порой
Ходит маленькая ножка,
Вьется локон золотой.

Dịch

Thành phố phồn vinh, thành phố bần hàn
Hồn câu thúc mà dáng hình đoan chính
Vòm trời xanh một màu xanh xam xám
Buồn tẻ, lạnh băng, bên đá hoa cương
Nhưng dù sao ta vẫn thấy vấn vương
Bởi đôi lúc bàn chân ai nho nhỏ
Vẫn đi về dạo bước trên đường phố
Những búp tóc vàng óng ả, đung đưa

В дверях эдема ангел нежный
Главой поникшею сиял,
А демон мрачный и мятежный
Над адской бездною летал.
Дух отрицанья, дух сомненья
На духа чистого взирал
И жар невольный умиленья
Впервые смутно познавал.
«Прости, — он рек, — тебя я видел,
И ты недаром мне сиял:
Не всё я в небе ненавидел,
Не всё я в мире презирал».

Dịch

Vườn địa đàng Thiên thần ngồi tựa cửa
Rủ mái đầu rực rỡ ánh hào quang
Địa ngục sâu dang cánh lượn lang thang
Gã Ác Quỷ cuồng ngông và ảm đạm
Thần phủ định, Thần hoài nghi hắc ám
Ngó nhìn lên Thần hiền dịu trắng trong
Và lần đầu bỗng mơ hồ bâng khuâng
Bởi lửa lòng chợt bồi hồi êm ái
Rồi Quỷ phán: “Hào quang ngươi soi rọi
Chẳng uổng đâu…Ta từ bữa thấy ngươi
Không còn ghét tất cả ở trên trời
Không còn khinh mọi điều nơi hạ giới”

Trên đây chúng tôi đã chia sẻ đến quý độc giả những trang thơ Puskin vang danh nhất nước Nga. Qua bài viết này chắc chắn bạn đã cảm nhận được ngòi bút tinh tế và tài hoa của thi sĩ này. Hãy cùng nhau đón xem phần 7 với những trang thơ còn lại của ông nhé! Thân Ái!

Xem Thêm: Tuyển tập những bài thơ Puskin đi cùng năm tháng phần 5

Related posts

Bài thơ Vượt lên chính mình – Nhà thơ Nguyễn Đình Huân

admin

Bài thơ Mải miết ngắm dòng trôi – Nhà thơ Nguyễn Đình Huân

admin

Bài thơ Ngủ đi hỡi dấu yêu – Nhà thơ Nguyễn Đình Huân

admin

Leave a Comment