Nhà Thơ Nổi Tiếng

Nguyễn Hữu Huân cùng những trang thơ nổi tiếng nhất

Nguyễn Hữu Huân 阮友勳 (1830-1875), được biết nhiều với tên Thủ khoa Huân, là một sỹ phu yêu nước, lãnh tụ khởi nghĩa chống Thực dân Pháp xâm lược ở các tỉnh Miền Đông Nam Kỳ, mất tại quê nhà năm 1875. Ông sáng tác thơ không nhiều, hầu hết vào thời kì kháng chiến chống Pháp. Nguyễn Hữu Huân được ghi nhận là “một hiện tượng đặc sắc của văn học yêu nước thế kỷ 19 của Việt Nam. Hãy cùng nhau điểm qua một số thi phẩm đặc sắc của ông nhé!

Nội Dung

Kém danh vì bởi nước thăng trầm,
Vùng vẫy không lên nỗi cạn dằm.
Khép háng anh hùng ngồi thở vắn,
Khoanh tay hào kiệt đứng than thầm.
Trong dò hàng giặc chưa xong giá,
Ngoài ngóng tin triều đã bặt tăm.
Chẳng biết bao giờ hồi phục lại,
Một tay buồm lái để ai cầm.

Luống chịu ba trăng trấn cõi bờ,
Hiềm vì thương chút chúng dân thơ.
Nương oai tích lịch ôm con đỏ,
Vâng lịnh nam phong phất ngọn cờ.
Miễn đặng an nhà cùng lợi nước,
Chỉ nài dãi gió với dầm mưa.
Biển hồ dầu lặng, tằm kình bặt,
Giải giáp một phen chúng thảy nhờ.

Khúc vạy lòng toan muốn chặt ba
Văng vỏ bao nhiêu ôm để đó
Chờ khi nấu nước sẽ đem ra
Khó gọi thâm nghiêm cửa chín trùng
Ngày nào cha mẹ cứu con cùng
Bốn mùa man mác tình nhà cửa
Trăm dặm đau buồn cảnh núi sông
Mây trắng đã giăng trời Bến Nghé
Nắng chiều dường cháy Gò Công
Ngọn cờ phá lỗ bao giờ thấy
Thiên hạ người đều ngóng cổ trông

Hai bên thiên hạ thấy hay không
Một gánh cang thường há phải gông
Oằn oại đôi vai quân tử trúc
Long lay một cổ trượng phu tòng
Thác về đất Bắc danh còn rạng
Sống ở thành Nam tiếng bỏ không
Thắng bại dinh hư trời khiến chịu
Phản thần đáo hảo đứa cười ông

Tùng cúc ngày xưa thấy đặng còn
Thân này chẳng thẹn với sông non.
Miếu đường xa cách niềm tôi chúa,
Gia thất buộc ràng nghĩa vợ con.
Áo Hán mười phần thay cách lạ,
Rượu Hồ một mực đắm mùi ngon.
Giang Đông vẫn biết nhiều anh tuấn,
Cuốn đất kìa ai dám hỏi don.

Nghĩ thẹn râu mày với nước non
Nhìn nay tùng, cúc bạn xưa còn
Miếu đường cách trở bề tôi chúa
Gia thất riêng buồn nỗi vợ con
Áo Hán nhiều phen thay vẻ lạ
Rượu Hồ một mặt đắm mùi ngon
Giang Đông nổi tiếng nhiều tay giỏi
Cuốn đất kìa ai, dám hỏi don

Hai bên thiên hạ thấy hay không?
Một gánh cương thường, há phải gông!
Oằn oại hai vai quân tử trúc,
Long lay một cổ trượng phu tòng.
Sống về đất Bắc danh còn rạng,
Thác ở thành Nam tiếng bỏ không.
Thắng bại, dinh hư trời khiến chịu,
“Phản thần”, “đéo hoả” đứa cười ông!

Xem qua thư gửi rất kinh hoàng,
Nhi nữ chà chà cũng lớn gan.
Đơn bẩm cuối lòn loài bạch quỷ,
Sân quỳ vất vả phận hồng nhan.
Bán mình đâu nệ phiền lòng sắt,
Chuộc tội thà xin trọn nghĩa vàng.
Tiết khí dưới trần coi ít mặt,
Cang thường càng chuộng gánh giang san.

Đã sanh làm gái vẹn theo chồng,
Hóa đá kìa ai cũng đứng trông.
Vận rốt kể gì cơn gió bụi,
Đạo hằng hãy trọn với non sông.
Cửa gai hiu hắt sương in mặt,
Trướng vải lôi thôi nguyệt tỏ lòng.
Tan hợp dẫu rằng cơ tạo hoá,
Liễu bồ ướm thử lúc trời đông.

Có ai tri kỷ nhắn đôi lời,
Biết thú chi vui rủ dạo chơi.
Chốn cũ phong lưu quen những thuở,
Cảnh này quyến thức nhắm không người.
Ở ăn tuy phải nương cùng tục,
Khó nhọc đà nên cực nỗi đời.
Hương hoả ba sinh dầu chẳng toại,
Đừng đem hình dịch để trêu ngươi.

Khó gọi thâm nghiêm cửa chín trùng,
Ngày nào cha mẹ cứu con cùng.
Bốn mùa man mác tình nhà cửa,
Trăm dặm đau buồn cảnh núi sông.
Mây trắng đã giăng trời Bến Nghé,
Nắng chiều dường cháy đất Gò Công.
Ngọn cờ phá lỗ bao giờ thấy,
Thiên hạ người đều ngóng cổ trông.

汗馬難堪為國仇,
只因兵敗致身休。
英雄莫把贏輸論,
宇宙長看節義留。
無怖以驚胡虜魄,
不降甘斷將君頭。
當年萩水波流血,
龍島秋風起暮愁。

Tuyệt mệnh thi

Hãn mã nan kham vị quốc cừu,
Chỉ nhân binh bại trí thân hưu.
Anh hùng mạc bả doanh thâu luận,
Vũ trụ trường khan tiết nghĩa lưu.
Vô bố dĩ kinh Hồ lỗ phách,
Bất hàng cam đoạn tướng quân đầu.
Ðương niên Tho thuỷ ba lưu huyết,
Long đảo thu phong khởi mộ sầu.

Muôn việc cho hay số bởi trời,
Chiếc thân chìm nổi biết bao nơi.
Mấy hồi tên đạn ra tay thử,
Ngàn dặm non sông dạo gót chơi.
Chén rượu Tân Đình chưa mãn tiệc,
Vần thơ cố quốc chẳng ra lời.
Anh hùng chí cả nam nhi phận,
Hễ đứng làm trai chác nợ đời.

Bày vóc mình thoạt đã nằm trơ;
Bặt tăm tiếng sao không dậy sửa!
Hỡi ôi:
Hết tưởng ba ơn;
Đã về một ngỏ.
Nhớ chó xưa:
Tánh khí vốn ngừ nghè;
Nết na hay cử cỏ.

Ở trời Nghiêu an phận, đem thân nhờ người Chích chẳng dời;
Nằm đất Thục khoanh đuôi, giật mình sửa vầng hồng đương lố.
Lạc đường ngàn dặm, dẫn chủ nhân chẳng lộn đường về;
Giữ cửa năm canh, ngăn đạo giả đã khua tai mỏ.
Nào mấy ai hết sức, nương mây xanh theo Ngủ Bị ngày xưa;
Cũng có kẻ toan mưu, trộm áo trắng cứu Mạnh Thường thuở nọ.
Lòng không quên chủ, gặp người quen ngồi lại liếm quanh;
Tánh ỷ gần nhà, thấy kẻ lạ chạy ra nhảy bổ.
Ngươi bao quản lời qua cửa miệng, gã Tôn Thông chê lũ cẩu du;
Mầy đã đành ôn tạc trong xương, ông Hán tổ vì công Quan Võ.
Khi thanh vắng ở nhà gìn giữ, dấy oai phong khiếp chuột kiêng mào;
Lúc thảnh thơi theo chủ săn chơi, dở kỵ nghệ rượt chồn bắt thỏ.
Những tưởng ở miền thế tục, sống trăm năm rộng vóc dài lưng;
Nào hay đâu bị lũ ăn chơi, rủi một phút nhăn răng méo mỏ.

Ôi:
Hồn xuống chín sông;
Thịt ra một rổ.
Thương ơi thương, mình rướm mở vàng;
Thảm ỷ thảm, thịt sa lửa đỏ.

Đồ tống táng có tương, có mè, có sả, có đậu, nấu nướng rồi dọn đầy mâm;
Việc tế chay nầy hầm, nầy xáo, nầy lụi, nầy phay, muối mè đủ múc rồi khoả tộ.
Trên trước các thầy liêu lại, đũa đôi cây khều gã vào mồm;
Dưới sau mấy đứa em hầu, rượu ba chén đưa mầy vào cổ.
Chẳng sống chi nằm chái nằm hè;
Thà thác đặng lên mâm lên cỗ.
Thời nào thuở, cơm thì thừa, canh thì mặn, thấy ốm đau nào kẻ có màng;
Đến lúc này, thịt thì béo, hơi thì thơm, nghe xào xáo nhiều người hỏi dọ.
Dầu có ức mi lên thưa cùng Phật Tổ;
Sao Trí Thâm thành Phật ngũ đài?
Như có oan, gã kiện xuống Diêm La;
Sao Phàn Khoái phong hầu vạn hộ?
Phải tánh ngươi thuần hậu, dễ ai tài chẳng thương tày;
Bởi nết gã lăng loan, nên phải sống sao đáng số!

Trên đây, chúng tôi đã dành tặng đến các bạn những trang thơ hay và ấn tượng nhất của nhà thơ Nguyễn Hữu Huân. Ông là một hiện tượng mới nhà thơ – chiến sĩ đặc sắc. Hãy cùng nhau theo dõi và cảm nhận nhé! Thân Ái!

Related posts

Nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh cùng kho tàng thơ dịch đặc sắc nhất phần 3

admin

Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu và tập Ngư tiều y thuật vấn đáp phần 3

admin

Nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm và tập Bạch Vân am thi tập Phần cuối

admin

Leave a Comment