Nhà Thơ Nổi Tiếng

Tập thơ: Đường Giải Phóng (1977) – Bảo Định Giang (Tiếp)

Tập thơ: Đường Giải Phóng (1977) – Bảo Định Giang (Tiếp)

Xem đầy đủ: Nhà Thơ Bảo Định Giang Và Sự Nghiệp Thơ Ca Của Ông

Nội Dung

(Tặng đoàn ca múa nhân dân giải phóng)

Vui chi chim nhỏ của ta
Gió mưa chưa tạnh, bay ca khắp rừng?
Phải chăng chim được tin mừng
Quân ta thắng lớn
Không ngừng hò reo?
Hẹn ngày mai nhé chim yêu
Nắng lên… ta sẽ bay theo quân mình.
Ta về vui với kinh xanh
Vui đồng lúa chín đi giành mùa xuân.
Chim nghe sung sướng khôn cùng
Cất cao giọng hát
Cây rừng xôn xao…!

Chiến khu Nam Bộ, 9-1970

Tiếng gà gáy rộn trong thôn
Lần nương theo lối đường mòn tôi đi…
Dặm dài chân mỏi sá chi
Miễn sao hội nghị kịp kỳ ngày mai
Qua năm cầu khỉ lắt lay
Qua hai đồng cỏ sình lầy ngập chân
Giấy tờ tuy gọn trong khăn
Cầu tre lắt lẻo có lần tưởng rơi
Nghe chừng bụng đói đến nơi
Đồng không… chẳng thấy bóng người, cứ đi…

Mặt trời đỏ ối… Ơ kìa!
Ô môi nở rộ kịp thi màu hồng.

Ngô đồng đã trổ đỏ làng
Đàn cu cũng đã gáy vang đầu bờ
Tết về ta nhớ Bác Hồ
Tuổi chồng lên tuổi, Người chưa hẳn già!
Một năm rồi một năm qua
Người thêm khoẻ mạnh là ta vui mừng
Bao giờ Đọc lập, ngày xuân
Ta đi ta nấu bánh chưng dâng Người.
Bây giờ Người ở xa xôi
Bánh chưa gửi được, mượn lời kính thăm.
Quay đầu về Bác đăm đăm
Những mong những ước: muôn năm Bác Hồ!

Theo bước chân anh khắp nẻo đường
Tìm Anh. Đi vắng! Sáng tinh sương
Nghe mùi thuốc súng đêm còn đọng
Thoáng bóng Anh đi… giữa chiến trường!

Dốc núi cao cao: Nguyễn Chí Thanh!
Biết bao thử thách ở quanh mình
Nặng tình quê mẹ chân không mỏi
Mỗi bước đường thêm thương nhớ Anh.

Anh mất thật ư? Chẳng lẽ nào!
Tìm Anh. Đi mãi…
biết Anh đâu?
– Đoàn quân bách thắng xông lên đó
Anh đó muôn nghìn mũ đính sao.

Vàm Cỏ Đông, 8-1970

Đêm xuống võng treo nghe thấm lạnh
Trời trăng, rừng núi phủ đầy sương
“Sắp qua cầu” giọng ai lanh lảnh
Ôi! Điệu chèo sao rất dễ thương!

Sương mù sáng sớm giăng đầu núi
Lững thững mây bay: dải lụa là
Im lặng
Bốn bề không tiếng động
Mà trong im lặng có lời ca.

Đảng đã cho ta bao sức sống
Giục ta đi trọn đoạn đường dài
Ta đi, rừng núi giang tay đón
Nhạc đất trời đẹp quá, sáng nay.

Điệu chèo quen thuộc ở quê cha
Cùng với người đi đánh giặc xa
Yêu nhạc chèo như yêu đất nước
Miền Nam khúc ruột của lòng ta!

Sông Cửu Long ơi, hẹn lấy ngày
Trời kia trong lại, đất xanh cây
Đêm đêm dạo khúc đàn xưa ấy
“Vọng cổ” không còn chất đắng cay!

Trên Trường Sơn, 13-11-1970, gặp một đơn vị ở Hà Bắc hành quân vào Nam

(Trích)

Ta nhớ đâu như chốn này
Hang rào râm bụt, rặng ô môi
Vườn thơm nhãn chín, xoài sai quả
Mưa nắng hai mùa một sắc mây.

Ba chục năm tròn xa vắng quê
Những chiều tắt nắng, mỗi canh khuya
Nghe như có tiếng chèo khua mái
Từ một dòng sông thuyền đổ về.

Rạch Gầm căm giận sôi dòng nước
Dim sạch quân Xiêm tận đáy sông
Vó ngựa Trường Sơn không ngại bước
Bần gie đóm đậu sáng ngời công.

Nền Tháp rêu phong lớp lớp dày
Dấu xưa còn đó rạng tên ai
Cháu con theo dấu cha ông trước
Làng Đốc Binh Kiều hạ máy bay.

Ba lượt tù đày không nhụt chí
Xanh dòng Bảo Định nước thêm trong
Ngàn năm vọng mãi lời non nước:
“Đây gánh cang thường chẳng phải gông”.
Quan làng cóc rác có ra chi
NHớ chuyện mâm xôi mấy chữ đề:
“Thằng Lạc”
– ở đời danh có thế
Đắng cay còn đọng mấy vần thi.

Cầu Vĩ con sông nhỏ của ta
Hàng me che mát khách phương xa
Bôn ba chưa tiện ngồi câu cá
Tâm sự thâu canh chuyện nước nhà.

Nước mắt nhà tan phận hẩm hiu
Nỗi lo đi trước nỗi buồn theo
Xót xa đâu chỉ Đời cô Lựu
Hạnh phúc không đi với kiếp nghèo.

Chùa Vĩnh Chàng đêm rộn mõ chuông
Nhưng đời không vợi nỗi đau thương
Xóm nghèo thợ guốc chân không guốc
Áo rách phơi lưng giữa phố phường.

Dẫu chẳng thành công chịu đứt đầu
Thịt xương thà lấp hố bom sâu
Ngươn Long, chợ Giữa giương cờ đỏ
Khắp xứ vùng lên ta gọi nhau.

Day dứt ai hay chuyện chị Mười
Con trai còn đỏ hỏn trên nôi
Bỏ đi, sương gió se lòng mẹ
Con lớn lên sẽ hiểu nghĩa đời.

Tháng Tám mùa thu vui vận mới
Hai bờ Bảo Định rực cờ son
Đất liền thầm nặng ơn Côn Đảo
Thuyền nối thuyền mừng đón Bác Tôn.

Chào thủ khoa Huân! Chào tỉnh nhà!
Thu xưa gió thảm nay lời ca
Sông Tho pha máu nay xanh biếc
Đồ Chiểu hai bờ sông nhấp nhô.

Giải phóng vui chưa được mấy ngày
Thị thành giẫm nát dấu giầy Tây
Bưng biền theo bước chân anh Tiếp
Gió nội sen đồng hương toả bay.

Như dải kinh xanh chảy thẳng dòng
Như Đồng Tháp rộng trải mênh mông
Nuôi con từng bữa thương tình Mẹ
Nghĩa trả ơn đền nguyện lập công…

Hà Nội, 1-3-1975

I – Miền Đông

Nhớ chiều khu xưa cực kéo dài
Bốn mùa trời dãi lấtù bay
Lâu lâu thèm thịt đào con cúi
Bụng đói đi moi mớ củ mài.

Đánh Pháp vừa xong ai ngỡ đâu
Lửa bom Mỹ -Diệm dội lên đầu
Suối xưa lại uống, rừng xưa ở
Kháng chiến lần này lại gặp nhau

II – Miền Trung (Đồng Tháp Mười)

Đồng ruộng như lòng của mẹ tôi
Yêu con đùm bọc khắp trăm người
Nhưng lòng quyết chẳng dung tha giặc
Những đưa con hoang dại giống nòi.

Trong vắt gương soi: ao nước phèn
Khắp vùng vẫn toả ngát hương sen
Cảnh xưa dấu đẹp chờ người cũ
Thương nhớ nhau hoài đêm lại đêm!

III – Miền Tây

Rễ được xoè ra: triệu ngón tay
Bám vào lòng đất, đố ai lay!
Đọt dừa nước nhọn: nghìn gươm sắc
Thách lũ giặc trời bay xuống!

Nghe rõ từng hồi nước Cửu Long
Sóng dâng muôn đợt, sóng trong lòng
Bóng đêm sắp tắt cờ lên đỏ
Trời của quê ta đã ửng hồng!

Hà Nội, những ngày tháng 7 -1960

Hỡi các em gái và trai Ba Lan đi viếng nghĩa địa Pan-mi-ry hôm nay!
Các em ơi! những người nằm đó là ai?
Ân nhân của riêng các em chăng?
– Không! Của các anh đó!

Các em hãy trông này:
Những tấm bia của từng ngôi mộ không ghi tháng ngày
Trong không gian và thời gian vô tận
Họ sống muôn đời;
Rừng thông lớn như thổi, từng lúc reo lên như tiếng họ hát
Mặt trời mọc sớm nay sáng sủa như mặt họ cười.
Họ là Lương tâm và Danh dự của loài người.
Họ- hàng nghìn người – mang một tên chung rất đẹp: Ba Lan
An là người miền Nam Việt Nam
Quê anh chín năm gian khổ đuổi giặc Pháp
Giặc Pháp cút
Mỹ Diệm – bọn giặc mới –
Giết người thân thuộc của anh rất rã man.
Miền Nam – nơi chôn rau cắt rốn của anh –
Hàng triệu người đang đứng dậy
Mẹ già tóc bạc phơ cũng cầm gậy ném vào đầu thù.
Tất cả không hề sợ rơi đấu
Không hề sợ tội tù
Chỉ sợ mất Tự do
Các em ơi!
Những người đang yên nghỉ nơi này trước giờ gục ngã
Họ không đòi hỏi gì cho bản thân họ cả
Họ chỉ nhắn nhủ mọi người:
“Nói đến Tổ quốc Ba Lan dễ
làm việc được cho nó rất khó
dám chết cho nói càng khó
Nhưng khó hơn cả là sự kiên nhẫn”

Em gái và em trai nhỏ Ba Lan
Có mái tóc mượt mà rất đẹp của anh ơi!
Ở trường chắc các em có nhiều sách đọc
Nhưng ở mỗi cái bia này xin em hãy học
Ý nghĩa của từng lời
Để chuẩn bị vào đời.

Nghĩa địa Pan-mi-ry:
trường học lớn!
Từng cái bia ở Pan-mi-ry:
những trang sách quý
mở ra giữa đời
Hãy học mãi em ơi!

Vác-sa-va, 4-1962

Đi nhanh vã cả mồ hôi
Trời trưa nắng gắt ta ngồi xuống đây
Bờ ao dưới gốc trâm này
Bạn ơi cơm gói hãy bày ra ăn
Mệt rồi bạn có nghie chân
Rơm kia là chiếu là chăn của mình!
Mênh mông mây trắng đồng xanh
Trong mơ… nghe dậy bao tình quê hương!

Cầu Kè (Trà Vinh), hè 1947

Dẫu có xác xơ những lá cành
Chồi non còn sức vọt lên nhanh
Quê ta giặc Mỹ không thiêu nổi

(Tặng P.)

Nhìn tôi em bỗng gọi: “Ba ơi!”
Tôi nào dám nhận, bởi em tôi
Tuổi đời tuy chửa đầy mười tám
Mà chí diệt thù đáng mấy mươi!

Dẫu mái tóc anh đã đổi màu
CHúng mình đâu có khác chi nhau,
Tim em thường đập anh nghe rõ
Lửa đỏ lòng anh em biết đâu!

Lớn nhỏ, hơn thua mấy tuổi đời
Phải đâu là thước để đo người
Tuổi nào chẳng lớn trong lòng Đảng
Chẳng lại con chung của giống nòi!

Bài học căm thù của chính em
Dạy anh từ ấy… thấy sâu thêm:
Buồn thương một núi, đầu không cúi
Sống giữa đời bằng một quả tim!

Như lá rừng tràm lửa đã nhen
Mưa dầm, vẫn cháy mãi thâu đêm.
Như cây lúa xạ trên đồng nước
Ngập lụt ngang trời vẫn vượt lên!

Bên cạnh có em, anh vững lòng
Ta đi thực hiện giấc mơ chung
Con đường trước mặt dù gian khổ
Sánh bước ta đi… đến tận cùng!

Trường Sơn, tháng 9-1970

Sau ba mươi năm xa cách

Em gái! nơi đây là chốn nào
– Mỹ Tho!
Ừ nhỉ! thích nghe sao!
Biết rồi vẫn hỏi. Thương là thế
Mơn mởn vườn xưa những mận đào.

Ngã ba Trung Lương, sáng tháng 5-1975

Mạnh thì đầy thúng
Yếu cũng nửa thúng
Ai ơi! Đợi với tôi cùng
Miền Đông thiếu gạo ta ngồi không sao đành!
Đường xa ta phải đi nhanh
Mấy bưng cũng lội mấy gành cũng qua.
Bờ trơn ta chẳng nề hà
Bàn chân bám chặt khó sa xuống bờ
Trời mưa mặc kệ trời mưa
Gạo ta đậy kín bao giờ ngại hư.
Đồn Tây trên lộ sờ sờ
Chim chìa-vôi báo canh tư qua rồi.
Ráng lên một chút ai ơi!
Kẻo để sáng trời ta liệu tính sao ?
Thằng Tây mày ác đến đâu
Không làm đói được đồng bào của ta
Quyết tâm đánh đuổi Tây tà
Dẫu cho phải cực bằng ba, bằng mười.
Đức Hoả Thành, 1950

Tết tôi không rượu không chè
Không hoa thắm nở quanh hè ngát hương
Không câu đối đỏ đầu tường
Cũng mặc xác pháo bên đường gió bay.

Tết tôi nội cỏ rừng cây
Đơn sơ cuộc sống những ngày chiến khu
Nửa đêm làm lễ giao thừa
Tôi bồng tay súng chào đón xuân.
Cùng bao bè bạn quây quần
Say sưa kể chuyện những lầu xuân sang…

Tết tôi đến rất nhẹ nhàng
Với hương gió nội, với ngàn dâu xanh
Nương nhau mái ấm nhà tranh
Gia đình này có gia đình này hơn!
Xa tình thương có tình thương
Lời thơ ấp ủ muôn phương gởi về!

Tết tôi là hội ăn thề:
Dù nghìn gian khổ không hề thoái lui.
Quyết không để nhục giống nòi
Quyết không để thẹn muôn đời tổ tông!

Tết tôi là Tết Quang Trung
Gươm bay vun vút không dung giặc thù.
Uy nghiêm tiến dưới ngọn cờ
Chân đi rầm rập tung hô khải hoàn.

Tết tôi Tết vệ quốc đoàn
Chào mừng Xuân mới những tràng súng xa!

Xuân 1947

Một hôm đứng trên đỉnh núi, buồn về nỗi cô độc của mình, nhà thơ nổi tiếng đời Đường là Trần Tử Ngang, có làm một bài thơ tạm dịch như sau:
“Trước chẳng thấy người xưa
Sau chẳng thấy lớp trẻ
Ngẫm trời đất mịt mờ
Ngậm ngùi, riêng nhỏ lệ”
Buổi bế mạc Đại hội IV của Đảng, 250 thiếu nhi thay mặt Đội Thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh phấn khởi đến kính chào Đại hội. Tiếng trống, tiếng hát và tiếng vỗ tay đều của các em vang lên giữa Hội trường Đại hội, làm cho mọi người vừa xúc động, vừa phấn chấn, nhân đó có bài này, hoạ lại bài của Trần Tử Ngang.

Trước ta ngàn vạn anh hùng
Sau ta lớp lớp thần đồng tiến lên.
Nhân dân là biển mênh mông,
Ta trong biển ấy làm nên sóng thần.
Dẫu đời chưa sạch bụi trần,
Lung linh ngọc bích trong ngần Đảng ta!
Sáng lòng nên ấm giọng ca,
Nhịp đều tay nhỏ hoá ra sấm rền.

Hội trường Ba Đình, 20-12-1946

(Kính tặng các đồng chí nhiều tuổi Đảng)

Yêu những mái đầu trắng tơ bông
Cho đời đổi sắc: xám ra hồng
Hỡi em yêu, cổ quàng khăn đỏ
Mắt biếc nhìn trời có đẹp không ?

Trước Hội trường Ba Đình, ngày khai mạc Đại hội Đảng lần thứ IV, 14-12-1976.

Len lỏi qua đồn không ngại giặc
Tìm con, bánh tét bọc trong khăn
Bánh chưng miền Bắc giờ ngon quá
Thương má, làm sao gửi má ăn!

Vĩnh Linh, 1961

(Khi nhà báo Ma-Tê-Giưa, người Hung-ga-ri – từ Việt Nam về – viết trên báo (Nhân dân tự do) em về Võ Ngọc Liên, một nữ học sinh miền Nam học ở Hải Phòng có khiếu kéo đàn vĩ cầm, nhưng em chưa có đàn để tập dượt, nhiều nơi trên đất nước Hung–ga-ri đã gửi đến đại sứ quán Việt Nam dân chủ cộng hoà những chiếc đàn vĩ cầm để nhờ chuyển tặng em Võ Ngọc Liên)

Từ xứ lạnh đi về hướng xứ nóng
Đàn thương ai đàn cũng về đây
Áp vào má, siết vào tay
Tình sông Đa-núp dâng đầy Cửu Long.

Ở trong đó nghe không hở mẹ?
Nỗi nhớ thương vò xé đêm sâu!
Lửa thù bốc cháy càng cao
Nóng lòng khoé mắt, bỏng đầu ngón tay!
Đêm dù tối ngày mai lại sáng
Đàn lên em: năm tháng trùng phùng!
Về Nam đàn sẽ về cùng
Em đàn em hát ấm lòng từ đây!

Bu-đa-pet, tháng 4-1962

Ai ơi! Có nhớ Tháp Mười
Về đây tìm lại dấu người xưa, xa…
Sen đồng nay đã nở hoa
Mùi hương đằm thắm cho ta nhớ mình
Hây hây nắng xế dịu lành
Rặng tràm ngả bóng bờ kênh so hàng
Tình thương đất nước mênh mang
Hồn vui như nắng trải vàng ruộng xanh
Nước phèn trong vắt thủy tinh
Bưng sâu thấy đáy tâm tình nông dân

Gái trai lưu luyến mùa trăng
Câu hò thêm đậm tinh thần nước non
Trăm cay nghìn đắng khôn sờn
Lòng người sau trước sắt son một lòng

Bâng khuâng ai có thấu cùng
Còn đây mà lại tưởng chừng sắp xa
Ngày mai Tổ quốc reo ca
Bờ kênh ruộng lúa có ta bên mình.

(Khi nghe tin hàng triệu đồng bào Sài Gòn xuống đường)

Rừng suối nào đây ran tiếng ve?
Nhớ sao kháng chiến giữa trưa hè
Anh nuôi không ngủ thương đồng chí
Lặng lẽ luồn rừng đi hái le

Phượng đỏ đầy sân thêm nhớ ai
Đường làng Cao Lãnh thắm ô môi
Hành quân qua cổng ai ra đón
Mía ngọt trao tay, mặn nụ cười!

Muôn triệu đồng bào chân nối chân
Sài Gòn đứng dậy sức nào ngăn!
Miền Nam quê mẹ truyền thêm sức
Mũi thuốc chưa tiêm đã khoẻ dần!

Bệnh viện Việt – Xô, hè 1963

(Tặng hoạ sĩ Lê Vinh)

Hết giấy, hết màu không cạn từ
Mồ hôi nhỏ giọt giữa đêm dài
Sáu mươi cây số, mười cân ruốc
Vẽ được thức ăn, thế mới tài!Căn cứ Dương Minh Châu, Tây Ninh, 1951

Mồng một, mấy lần bom giặc dội
Rượu đưa, Ba bảo: (Uống đi bay!
Giặc điên giặc nó, mình vui tết)
Tan trận bom rồi, mặt đỏ gay.

Xã Tân Hoá, Đồng Tháp Mười, Tết 1949

Dịch của tác giác Bùi Hữu Nghĩa:

自述其一
鬚眉推我老,
肝腑向誰陳。
望治同春日,
端居賴北辰。
昏霾風幾度,
澎湃雨經旬。
世路泥塗甚,
狂歌且飲頻。

Tự thuật kỳ 1
Tu mi thôi ngã lão,
Can phủ hướng thuỳ trần?
Vọng trị đồng xuân nhật,
Đoan cư lại Bắc thần.
Hôn mai phong kỷ độ,
Bành bái vũ kinh tuần.
Thế lộ nê đồ thậm,
Cuồng ca thả ẩm tần.

Dịch nghĩa
Râu tóc bạc thêm như thúc giục ta già nhanh,
Gan ruột biết bày tỏ cùng ai?
Ước mong được cảnh thái bình mọi người cùng hưởng xuân,
Và nơi ta ở có sao Bắc Đẩu soi tới.
Đã mấy độ gió cuốn bụi mờ mịt,
Và mưa tuôn ròng rã, nghe tiếng vỗ của nước tràn
Đường thế sao lắm bùn lầy vậy,
Thôi cứ hát tràn và uống cho say.

自述其二
雨如天似漏,
潮漲水如奔。
世路泥塗甚,
園中草滿繁。
蚊雷喧枕墊,
蛙鼓鬧黃昏。
霜鬢傷遲暮,
消愁酒一樽。

Tự thuật kỳ 2
Vũ như thiên tự lậu,
Triều trướng thuỷ như bôn.
Thế lộ nê đồ thậm,
Viên trung thảo mãn phồn.
Văn lôi huyên chẩm điếm,
Oa cổ náo hoàng hôn.
Sương mấn thương trì mộ,
Tiêu sầu tửu nhất tôn.

Dịch nghĩa
Mưa tuôn dường như trời bị thủng,
Triều lên nước chảy xiết như chạy.
Đường thế sao lắm bùn lầy vậy?
Trong vườn cỏ mọc um tùm.
Muỗi kêu như sấm dậy bên gối nệm,
Tiếng ếch như tiếng trống náo động buổi hoàng hôn.
Thấy tóc sương mà thương đời ta tàn lụi,
Để tiêu sầu dùng một chén rượu.

Dịch của tác giả: Đỗ Phủ

自京竄至喜達行在所其一
西憶岐陽信,
無人遂卻迴。
眼穿當落日,
心死著寒灰。
霧樹行相引,
蓮峰望忽開。
所親驚老瘦,
辛苦賊中來。

Tự kinh thoán chí hỷ đạt hạnh tại sở kỳ 1
Tây ức Kỳ Dương tín,
Vô nhân toại khước hồi.
Nhãn xuyên đương lạc nhật,
Tâm tử trước hàn hôi.
Vụ thụ hành tương dẫn,
Liên phong vọng hốt khai.
Sở thân kinh lão sấu,
Tân khổ tặc trung lai.

Dịch nghĩa
Trông mong tin tức từ phía tây Phụng Tường ở phía nam núi Kỳ Sơn,
Mà chẳng có ai tới được.
Mắt cứ đăm đăm nhìn về nơi trời lặn (phía tây),
Lòng cay đắng như tro nguội.
Nhưng rồi qua rừng rậm liều đi,
Núi trập trùng từng dãy, dứt rồi nối.
Khi tới Phụng Tường, người quen biết kinh hãi vì thần sắc suy kém của mình,
Trải bao khó nhọc từ vùng giặc mà ra đi.

(Năm 757)

Bản dịch của Bảo Định Giang:

Tin tức Kỳ Dương ngóng
Người về nào thấy ai
Tro tàn lòng đã chết
Bóng xế mắt không rời
Theo khói cây lần bước
Chợt đồi núi mở đôi
Bạn kinh mình hốc hác
Vùng giặc đến đây rồi

Dịch của tác giả Hồ Huân Nghiệp:

絕命詩
見義寧甘不勇為,
全憑忠孝作男兒。
此身生死何修後,
惟戀高堂白髮時。

Tuyệt mệnh thi
Kiến nghĩa ninh cam bất dũng vi,
Toàn bằng trung hiếu tác nam nhi.
Thử thân sinh tử hà tu hậu,
Duy luyến cao đường bạch phát thì.

Dịch nghĩa
Thấy việc nghĩa lẽ nào không dũng cảm ra làm
Phải giữ trọn điều trung hiếu để xứng đáng là đấng nam nhi
Thân này sống hay chết chẳng cần kể làm gì
Chỉ thương mẹ già, phất phơ tóc bạc

Bản dịch:

Thấy nghĩa lòng đâu dám hững hờ
Làm trai trung hiếu quyết tôn thờ
Thân này sống chết khôn màng nhắc
Thương bấy mẹ già tóc bạc phơ

Dịch thơ của tác giả Nguyễn Thông:

芭蕉
障戶遮窗欲礙行,
解相炎景變凄清。
最憐月下微風度,
滿樹蕭蕭作雨聲。

Ba tiêu
Chướng hộ già song dục ngại hành,
Giải tương viêm cảnh biến thê thanh.
Tối liên nguyệt hạ vi phong độ,
Mãn thụ tiêu tiêu tác vũ thanh.

Dịch nghĩa
Ngăn cửa ngoài che cửa sổ, làm trở ngại cho người đi
Nhưng biết đem cảnh nóng nực biến thành mát mẻ
Rất đáng yêu dưới bóng trăng, lúc có làn gió hây hây
Toàn cây rung động làm thành tiếng mưa lách tách

Bản dịch:

Che song, ngăn cửa gây phiền
Mát người những lúc trời lên oi nồng
Đáng yêu trước gió, trăng lồng
Tiếng kêu lách tách tưởng chừng nhỏ mưa

丁卯新歲作
一臥龍江渚,
年華五度春。
漸看兒女大,
斗覺鬢毛新。
官以遲藏拙,
身相儉補貧。
故鄉戎馬在,
骨肉正悲辛。

Đinh Mão tân tuế tác
Nhất ngoạ Long Giang chử,
Niên hoa ngũ độ xuân.
Tiệm khan nhi nữ đại,
Đấu giác mấn mao tân.
Quan dĩ trì tàng chuyết,
Thân tương kiệm bổ bần.
Cố hương nhung mã tại,
Cốt nhục chính bi tân.

Dịch nghĩa
Nằm ở bãi Long Giang
Đã trải qua năm năm rồi
Nhìn lại đoàn con trai con gái đã khôn lớn lên dần
Bỗng thấy mái tóc mình đã đổi sắc mới
Làm quan vì chậm thăng nên giấu được vụng về
Nhà nghèo giữ được tiết kiệm để đỡ túng thiếu
Ở làng cũ nay đương có giặc giã
Bà con cốt nhục đang chịu cảnh tang tóc đắng cay

Đinh Mão: năm 1867.

Bản dịch:

Long Giang nằm mãi bao ngày
Năm này tính lại đã đầy năm năm
Gái, trai con cái lớn dần
Trông mình chợt thấy hoa râm mái đầu
Chậm thăng chức, giấu dốt lâu
Nhà nghèo tiện tặn trước sau đủ dùng
Quê nhà khói lửa mịt mùng
Biết bao cay đắng trong lòng bà con!

龍胡晚泛
反照千山暮,
輕寒細雨餘。
村煙過竹遠,
松影落江疏。
鳥道雲俱迥,
孤舟歲欲除。
數家林下住,
寥落似吾廬。

Long Hồ vãn phiếm
Phản chiếu thiên sơn mộ,
Khinh hàn tế vũ dư.
Thôn yên qua trúc viễn,
Tùng ảnh lạc giang sơ.
Điểu đạo vân câu quýnh,
Cô chu tuế dục trừ.
Sổ gia lâm hạ trú,
Liêu lạc tự ngô lư.

Dịch nghĩa
Bóng nắng chiều gọi lại trên nghìn quả núi
Mưa nhỏ tạnh rồi, khí trời hơi lạnh
Khói xóm chơi vơi qua làn tre xa
Ngó dọc bờ sông, bóng tùng thưa thớt, la đà trên mặt sông
Con đường nhỏ cùng với mây núi xa tít
Chiếc thuyền con chèo ở trên sông vào lúc cuối năm
Dưới chân rừng có mấy nhà ở lác đác
Cảnh quạnh hiu tương tự như nhà ta

Bản dịch:

Nắng chiều còn ánh trên nghìn núi
Mưa nhẹ tàn, hơi lạnh vẫn xông
Khóm trúc chơi vơi vương khói xóm
Bóng tùng thưa thớt ngã lòng sông
Đường chim nhỏ hẹp, mây vời vợi
Thuyền nhỏ đơn côi, tháng tận cùng
Lác đác dưới rừng nhà mấy nóc
Giống nơi ta ở cảnh buồn trông!

送人之嘉定
薄宦成名晚,
頻年未擬歸。
聞君下東浦,
此地近柴扉。
白社寒郊在,
青雲過客稀。
殷勤進消息,
歲宴委閨幃。

Tống nhân chi Gia Định
Bạc hoạn thành danh vãn,
Tần niên vị nghĩ quy.
Văn quân há Đông Phố,
Thử địa cận sài phi.
Bạch xã hàn giao tại,
Thanh vân quá khách hy.
Ân cần tiến tiêu tức,
Tuế yến uỷ khuê vi.

Dịch nghĩa
Quan chức thì nhỏ, thành danh cũng muộn
Đã mấy năm nay chưa nghĩ đến việc về thăm nhà
Nay nghe anh đi vào Đông Phố
Đó cũng gần nhà quê tôi
Bạn nghèo ở Bạch xã hãy còn đó
Khách sang qua lại thăm cũng ít
Nhờ anh hỏi thăm tin tức ra sao
Để tôi được an ủi lúc cuối năm còn ở xa chưa về được

Chức quan nhỏ, danh muộn mằn
Mấy năm gác chuyện, về thăm quê nhà
Nay nghe Đông Phố sắp qua
Nơi anh sẽ đến gần nhà của tôi
Bạn nghèo Bạch xã còn đây
Khách sang thưa thớt, ai người thăm nom
Nhờ cho tin tức bà con
Để tôi vơi bớt nỗi buồn cuối năm

Trên đây là hai Tập thơ Đường giải phóng (1977) của tác giả Bùi Định Giang được viết năm 1977 và các tập thơ được ông dịch của tác giả nước ngoài khác. 

Related posts

Tuyển tập thơ hay, nổi tiếng nhất của thi sĩ Bùi Giáng (Phần 1)

admin

Tập Thơ ” Cỏ Gai” Của Chim Trắng – Hồ Văn Ba Vang Vọng Với Thời Gian

admin

BST Kho Tàng Thơ Đặc Sắc Của Cao Bá Quát Phần 4

admin

Leave a Comment