Nhà Thơ Nổi Tiếng

Tuyển tập thơ chữ Hán Nguyễn Khuyến hay đặc sắc phần 9

Thơ chữ Hán của Nguyễn Khuyến đa phần đều bộc lộ thái độ của ông trước các vấn đề của thời cuộc. Đó chính là một chủ đề chính trong các sáng tác thơ ca của ông. Tuy nhiên thơ chữ Hán của ông lại rất bình dị, tinh tế, mang đậm màu sắc của dân tộc Việt Nam. Ở trong đó có chứa các giá trị đạo đứ, văn hóa và tạo nên nét đẹp tâm hồn của người Việt. Hãy cùng đón đọc các bài thơ chữ Hán Nguyễn Khuyến hay nhất mà chúng tôi chia sẻ với bạn dưới đây bạn nhé!

Nội Dung

餞門弟義定使君黎如白,因寄京城諸門弟其一
別子都門今七年,
歸來我亦捲青氈。
夢中身世幾為蝶,
亂後文章不值錢!
風雨修途能到此,
山河往事一悽然。
明朝又是江橋路,
敗絮殘雲七月天。

Tiễn môn đệ Nghĩa Định sứ quân Lê Như Bạch, nhân ký kinh thành chư môn đệ kỳ 1
Biệt tử đô môn kim thất niên,
Quy lai ngã diệc quyển thanh chiên.
Mộng trung thân thế cơ vi điệp,
Loạn hậu văn chương bất trị tiền!
Phong vũ tu đồ năng đáo thử,
Sơn hà vãng sự nhất thê nhiên.
Minh triêu hựu thị giang kiều lộ,
Bại nhứ tàn vân thất nguyệt thiên.

Dịch nghĩa
Từ biệt anh ở cửa kinh thành đến nay đã bảy năm,
Trở về nhà ta cũng cuốn tấm đệm xanh từ đấy.
Nghĩ thân thế chỉ như việc hoá thành con bướm trong giấc mộng,
Xem ra văn chương sau buổi loạn rẻ rúng không đáng tiền.
Đường dài mưa gió, anh đã có thể đến được đây,
Chuyện đã qua của non sông, tất cả đều đáng buồn.
Sớm mai, anh lại lên đường, qua sông qua cầu,
Giữa tiết trời tháng Bảy, mây tan, bông bay xơ xác!

餞門弟義定使君黎如白,因寄京城諸門弟其二
一別都門歲七周,
逢君更憶舊從遊。
遙遙關塞今何夕,
落落風塵各一州。
筆硯沉思應有淚,
山河舉目不塍愁。
君歸寄語相知者,
玄晏先生已白頭!

Tiễn môn đệ Nghĩa Định sứ quân Lê Như Bạch, nhân ký kinh thành chư môn đệ kỳ 2
Nhất biệt đô môn tuế thất chu,
Phùng quân cánh ức cựu tòng du.
Dao dao quan tái kim hà tịch,
Lạc lạc phong trần các nhất châu.
Bút nghiễn trầm tư ưng hữu lệ,
Sơn hà cử mục bất thăng sầu.
Quân quy ký ngữ tương tri giả,
Huyền Án tiên sinh dĩ bạch đầu!

Dịch nghĩa
Từ biệt cửa kinh đô chốc đã bảy năm,
Gặp anh, lại nhớ những người theo học cũ.
Quan ải xa xăm, ngờ đâu đêm nay lại gặp,
Gió bụi mịt mờ, mỗi người một nơi.
Ngẫm nghĩ đến bút nghiên, đáng tràn nước mắt,
Ngước nhìn sông núi, khôn xiết buồn đau.
Anh về, ta gửi lời tới những người quen biết,
Rằng: Huyền Án tiên sinh đã bạc đầu rồi!

小景
予有小石山,
山高不滿咫。
予有青石海,
纔容數斗水。
山童草不生,
海淺波不起。
坐看憫幽寂,
栽之以芝子。
芝子無土附,
青蔥蔥乃爾。
造化人其材,
扶持焉用彼。

Tiểu cảnh
Dư hữu tiểu thạch sơn,
Sơn cao bất mãn chỉ.
Dư hữu thanh thạch hải,
Tài dung sổ đấu thuỷ.
Sơn lượng thảo bất sinh,
Hải thiển ba bất khởi.
Toạ khan mẫn u tịch,
Tài chi dĩ chi tử.
Chi tử vô thổ phụ,
Thanh thông thông nãi nhĩ.
Tạo hoá nhân kỳ tài,
Phù trì yên dụng bỉ.

Dịch nghĩa
Ta có hòn núi đá nhỏ
Núi cao không đầy thước
Ta có cái bể đá xan
Chỉ đựng được vài gáo nước
Núi trọc không có cỏ mọc
Bể nông không có sóng dậy
Ngồi nhìn núi thương cảnh hiu quạnh
Lấy cây dành dành đem trồng vào
Dành dành không có đất bón
Mà tươi tốt như thế kia
Mới biết hễ có chất tốt thì tạo hoá vun đắp cho
Không cần mượn ai nâng đỡ cả

小寒
雨燠寒暘不可期,
盈虛消息孰先知。
骨冰耳笛我疑我,
巷笠田簑誰問誰。
徬砌小梅開口笑,
定巢新燕隔簾窺。
昔人亦有如余者,
劇醉狂歌也未癡。

Tiểu hàn
Vũ úc hàn dương bất khả kỳ,
Doanh hư tiêu tức thục tiên tri.
Cốt băng nhĩ địch ngã nghi ngã,
Hạng lạp điền thoa thuỳ vấn thuỳ.
Bạng thế tiểu mai khai khẩu tiếu,
Định sào tân yến cách liêm khuy.
Tích nhân diệc hữu như dư giả,
Kịch tuý cuồng ca dã vị si.

Dịch nghĩa
Mưa ấm rét tạnh không thể hẹn trước được
Cơ trời đầy vơi hao lớn ai là người biết
Gặp tiết tiểu hàn xương lạnh như băng, tai ù như sáo chính ta cũng ngờ ngợ cái then ta
Ngoài ngõ thì nón lá, cánh đồng thì áo tơi lặng lẽ chẳng ai hỏi ai
Cây mai bên thềm nhà hoa chum chím cười
Chim én mới đến tìm nơi làm tổ cách rèm nhìn vào
Đời trước cũng có người giống như ta
Cứ say tràn hát ngao cũng chưa là ngây dại

小嘆
歷閱風霜半白頭,
一官幸得老而休。
世途今又多坷坎,
利局難能寡怨尤。
為我拂鬚終有隙,
拭人唾面昔曾憂。
百杯亦為忘情者,
莫怪門前舐犢牛。

Tiểu thán
Lịch duyệt phong sương bán bạch đầu,
Nhất quan hạnh đắc lão nhi hưu.
Thế đồ kim hựu đa khả khảm,
Lợi cục nan năng quả oán vưu.
Vi ngã phất tu chung hữu khích,
Thức nhân thoá diện tích tằng ưu.
Bách bôi diệc vị vong tình giả,
Mạc quái môn tiền thỉ độc ngưu.

Dịch nghĩa
Từng trải gió sương đã bạc nửa đầu
Làm một chức quan may được cáo lão về nghỉ
Trên đường đời nay lại gặp nhiều bước gập ghềnh
Trong cuộc lợi khó giữ được ít lời oán trách
Kẻ phẩy râu cho mình rút cục cũng gây nên hiềm khích
Người ta nhổ vào mặt mà mình chùi đi đời xưa còn cho là đáng lo
Uống trăm chén rượu cũng vì để quên mọi sự
Dừng lấy làm lạ con trâu già liếm mình con nghé ở trước cửa

小園其一
何處勳風入草堂,
東窗睡覺夢魂涼。
蘭叢葉戰香歸袖,
茶碗光搖影上樑。
繞砌蟾爭擎粒蟻,
隔枝雀伺捕蟬螂。
小園亦有無窮趣,
憑几沉吟獨自量。

Tiểu viên kỳ 1
Hà xứ huân phong nhập thảo đường,
Đông song thuỵ giác mộng hồn lương.
Lan tùng diệp chiến hương quy tụ,
Trà uyển quang dao ảnh thướng lương.
Nhiễu thế thiềm tranh kình lạp nghĩ,
Cách chi tước tứ bộ thiền lang.
Tiểu viên diệc hữu vô cùng thú,
Bằng kỷ trầm ngâm độc tự lường.

Dịch nghĩa
Gió ấm từ đâu thổi vào ngôi nhà tranh
Tỉnh dậy bên cửa sổ phía đông hồn mộng mát mẻ
Khóm lan lá xô xát nhau đưa mùi hương vào tay áo
Chén trà dọi bóng sáng long lánh lên xà nhà
Bên thềm con cóc đớp con kiến đang vác hạt gạo
Cành cây bên cạnh chim sẻ rình con bọ ngựa đang bắt con ve
Vườn nhỏ cũng có những thú vị vô cùng
Trầm ngâm ngồi ghế một mình tự suy nghĩ

站夫
暮去朝還未息肩,
網夫情況絕堪憐。
不知乘網中人者,
一走風塵二十年。

Trạm phu
Mộ khứ triêu hoàn vị tức kiên,
Võng phu tình huống tuyệt kham liên.
Bất tri thừa võng trung nhân giả,
Nhất tẩu phong trần nhị thập niên.

Dịch nghĩa
Chiều đi, sớm về không hề nghỉ vai,
Tình cảnh anh phu cáng thực đáng ái ngại.
Có biết đâu chính người ngồi trong cáng,
Cũng long đong trong gió bụi chốc đã hai mươi năm rồi.

重陽不雨
重陽不雨為咨嗟,
瑟瑟西風奈爾何。
有客送來黃菊酒,
無人開得杜鵑花。
半山倒影頻移檻,
萬里冥鴻未定家。
病眼兼之塵擾甚,
閉門不出亦酣歌。

Trùng dương bất vũ
Trùng dương bất vũ vị tư ta,
Sắt sắt tây phong nại nhĩ hà.
Hữu khách tống lai hoàng cúc tửu,
Vô nhân khai đắc đỗ quyên hoa.
Bán sơn đảo ảnh tần di hạm,
Vạn lý minh hồng vị định gia.
Bệnh nhãn kiêm chi trần nhiễu thậm,
Bế môn bất xuất diệc hàm ca.

中秋前一日與縣尹楊君南幫武君舟中唱歌
入夜煙波未十分,
孤舟蕩漾一風薰。
半空篙櫓侵江月,
滿坐琴歌遏白雲。
劇興未應愁此老,
幽懷聊為慰諸君。
近來只欲南窗臥,
瀟瑟胡笳不忍聞。

Trung thu tiền nhất nhật dữ huyện doãn Dương dân Nam bang vũ quân chu trung xướng ca
Nhập dạ yên ba vị thập phân,
Cô chu đãng dạng nhất phong huân.
Bán không cao lỗ xâm giang nguyệt,
Mãn toạ cầm ca át bạch vân.
Kịch hứng vị ưng sầu thử lão,
U hoài liêu vị uý chư quân.
Cận lai chỉ dục nam song ngoạ,
Tiêu sắt hồ già bất nhẫn văn.

Dịch nghĩa
Lúc chập tối trên mặt sông khói mới toả sóng mới gợn lăn tăn
Một con thuyền dập dờn trong làn gió nhẹ
Sào và chèo cao lưng trời lấn cả sóng trên sông
Tiếng đàn hát nhộn nhịp trong tiệc làm cho đám mây trắng ngừng lại
Hững vui quá mạnh xin chớ lấy lão làm phiền
Nỗi lòng thầm kín chỉ mong làm khuây cho các bác
Gần đây chỉ muốn nằm khểnh trước cửa sổ phía nam
Những tiếng kèn hồ buồn rứt không muốn để lọt tai

中秋無月三日後忽然晴感作
平野已無山水遊,
兼之瑟瑟西風愁。
不知何處隱明月,
乃使此翁搔白頭。
唾罵文章成變雅,
蕭條景色入聲秋。
忽然晚見陰雲散,
竹影橫竿一小舟。

Trung thu vô nguyệt, tam nhật hậu hốt nhiên tình, cảm tác
Bình dã dĩ vô sơn thuỷ du,
Kiêm chi sắt sắt Tây phong sầu.
Bất tri hà xứ ẩn minh nguyệt,
Nãi sử thử ông tao bạch đầu.
Thoá mạ văn chương thành biến nhã,
Tiêu điều cảnh sắc nhập thanh thu.
Hốt nhiên vãn kiến âm vân tán,
Trúc ảnh hoành can nhất tiểu chu.

Dịch nghĩa
Ở đồng bằng đã không có núi sông để du ngoạn,
Lại thêm gió Tây hiu hắt làm cho người ta buồn.
Không biết trăng sáng ẩn náu ở nơi nào,
Khiến cho ông già này chỉ gãi mái đầu bạc.
Văn chương mỉa mai thành ra thể biến nhã,
Cảnh tượng tiêu điều hoà vào sắc thu trong.
Bỗng nhiên chiều về mây đen tan đi,
Trong bóng trúc một con thuyền nhỏ gác ngang cây sào.

除夕其二
除卻今宵是新歲,
遂成五十五年翁。
不知頭上幾莖白,
祇有年來雙眼紅。
人欲尋春明日見,
貧惟此夕百憂空。
沉吟坐對寒燈酌,
一句連年興未窮。

Trừ tịch kỳ 2
Trừ khước kim tiêu thị tân tuế,
Toại thành ngũ thập ngũ niên ông.
Bất tri đầu thượng kỷ hành bạch,
Chỉ hữu niên lai song nhãn hồng.
Nhân dục tầm xuân minh nhật kiến,
Bần duy thử tịch bách ưu không.
Trầm ngâm toạ đối hàn đăng chước,
Nhất cú liên niên hứng vị cùng.

醉後
五十休翁半畝堂,
北窗高臥半清涼。
肥泥水織荷衣密,
幽徑風牽草帶長。
雜句不須人共賞,
閒情惟有酒相當。
殘春病眼無分別,
日影熹微一樣黃。

Tuý hậu
Ngũ thập hưu ông bán mẫu đường,
Bắc song cao ngoạ bán thanh lương.
Phì nê thuỷ chức hà y mật,
U kính phong khiên thảo đới trường.
Tạp cú bất tu nhân cộng thưởng,
Gian tình duy hữu tửu tương đương.
Tàn xuân bệnh nhãn vô phân biệt,
Nhật ảnh hy vi nhất dạng hoàng.

Dịch nghĩa
Ông lão về hưu năm mươi tuổi với cái ao nửa mẫu,
Nằm khểnh trước song phía Bắc, được đôi chút thảnh thơi mát mẻ.
Ao nhiều bùn, mặt nước dệt áo lá sen dầy đặc,
Trên lối đi vắng, gió kéo ngọn cỏ thành dải lưng dài.
Câu thơ vặt, chẳng cần mọi người cùng thưởng thức,
Lúc nhàn rỗi, chỉ có rượu là sánh được cùng nhau.
Cảnh xuân đã tàn, mắt đau không nhìn rõ vật gì,
Chỉ thấy bóng mặt trời lờ mờ một sắc vàng

醉吟
欲知醉翁磊落之奇才,
也須一飲三百杯。
有時土沫作雲雨,
亦或睜眼為風雷。
李白捕鯨事非誕,
彭澤採菊心不乖。
世間欲醉醉不得,
算來萬事俱塵埃。

Tuý ngâm
Dục tri tuý ông lỗi lạc chi kỳ tài,
Dã tu nhất ẩm tam bách bôi.
Hữu thì thổ mạt tác vân vũ,
Diệc hoặc tranh nhãn vi phong lôi.
Lý Bạch bộ kình sự phi đản,
Bành Trạch thái cúc tâm bất quai.
Thế gian dục tuý tuý bất đắc,
Toán lai vạn sự câu trần ai.

自嘆
可憐五十四年翁,
面垢鬚斑眼又紅。
衰病亦無休息日,
勤勞只在醉眠中。
世途不復分名利,
法界從何見色空。
底意揣摩殊未解,
俟閒姑且問天公

Tự thán
Khả liên ngũ thập tứ niên ông,
Diện cấu tu ban nhãn hựu hồng.
Suy bệnh diệc vô hưu tức nhật,
Cần lao chỉ tại tuý miên trung.
Thế đồ bất phục phân danh lợi,
Pháp giới tòng hà kiến sắc không.
Để ý tuy ma thù vị giải,
Sĩ nhàn cô thả vấn thiên công.

Dịch nghĩa
Đáng thương ông già năm mươi tư tuổi
Mặt sạm râu đốm bạc mắt lại đỏ hoe
Ốm yếu mà cũng không có ngày nghỉ ngơi
Chỉ siêng có việc uống say và ngủ kỹ
Không còn phân biệt danh và lợi trên đường đời
Đâu mà thấy được lẽ sắc không của cõi Phật?
Suy xét mãi mà vẫn chưa hiểu rõ được thế là ý gì
Đợi khi thong thả ta sẽ hỏi ông trời xem

自述其一
綠野歸來四五期,
皤皤白髮復何為。
一貧貌瘦兼身瘦,
多病形癡亦影癡。
樽酒屢空黃菊笑,
栽書不就白鷗疑。
未知來世誰為我,
到此風流也是誰。

Tự thuật kỳ 1
Lục dã quy lai tứ ngũ kỳ,
Bà bà bạch phát phục hà vi.
Nhất bần mạo sấu kiêm thân sấu,
Đa bệnh hình si diệc ảnh si.
Tôn tửu lũ không hoàng cúc tiếu,
Tài thư bất tựu bạch âu nghi.
Vị tri lai thế thuỳ vi ngã,
Đáo thử phong lưu dã thị thuỳ.

Trên đây là những bài thơ chữ Hán Nguyễn Khuyến hay mà chúng tôi muốn chia sẻ và giới thiệu với bạn. Thông qua các bài thơ này bạn sẽ hiểu thêm về phong cách sáng tác của nhà thơ. Cũng như những tư tưởng, quan điểm mà nhà thơ đã thể hiện thông qua các sáng tác của chính mình. Đó cũng chính là lý do tại sao Nguyễn Khuyến lại được đánh giá cao và có vị trí cao trên văn đàn như thế.

Xem thêm: Tuyển tập thơ chữ Hán Nguyễn Khuyến hay đặc sắc phần 10

Related posts

Bàng Bá Lân (Nguyễn Xuân Lân) – Nhà thơ đồng quê nổi tiếng của văn học Việt Nam

admin

Nhà thơ Tản Đà và các tập thơ Đài gương (1919), Còn chơi (1921)

admin

Nhà thơ Thái Bá Tân và tuyển tập thơ dịch tác giả khác phần 2

admin

Leave a Comment